Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

I. Chúa Giê-su (430-435)

430210, 402

Trong tiếng Do-thái, “Giê-su” có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ.” Khi Truyền tin, thiên thần Gáp-ri-en dạy đặt tên cho Người là Giê-su; tên gọi này vừa diễn tả căn tính của Người, vừa diễn tả sứ vụ của Người.10 Bởi vì không ai “có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa” (Mc 2,7), cho nên, trong Chúa Giê-su là Con vĩnh cửu của Ngài, đã làm người, chính Thiên Chúa “sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Như vậy, nơi Chúa Giê-su, Thiên Chúa tóm kết toàn bộ lịch sử cứu độ của Ngài cho nhân loại.

4311441, 1850, 388

Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa không chỉ bằng lòng với việc giải thoát Ít-ra-en khỏi “cảnh nô lệ” (Đnl 5,6) khi đưa họ ra khỏi Ai-cập. Ngài còn cứu họ khỏi tội lỗi của họ nữa. Bởi vì tội luôn là một xúc phạm đến Thiên Chúa,11 nên chỉ mình Ngài mới có quyền tha tội.12 Vì vậy, khi Ít-ra-en càng ý thức rõ hơn về tính phổ quát của tội lỗi, họ càng không thể tìm kiếm ơn cứu độ ngoài việc khẩn cầu danh Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc.13

432589, 2666, 389, 161

Danh “Giê-su” nói lên rằng chính Danh Thánh Thiên Chúa hiện diện nơi bản thân của Con Ngài,14 Đấng đã làm người để cứu chuộc mọi người khỏi tội lỗi một cách dứt khoát. “Giê-su” là một Danh thần linh, Danh duy nhất mang lại ơn cứu độ,15 và từ nay mọi người có thể kêu cầu Danh của Người, bởi vì qua việc Nhập Thể, chính Người đã tự kết hợp với tất cả mọi người16 đến độ “dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).17

433615

Thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ được vị thượng tế kêu cầu mỗi năm một lần để xin ơn xá tội cho Ít-ra-en, khi ông lấy máu của hy lễ rảy lên bàn xá tội trong nơi Cực Thánh.18 Bàn xá tội xưa là nơi Thiên Chúa hiện diện.19 Khi thánh Phao-lô nói về Chúa Giê-su: “Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người” (Rm 3,25), ông muốn nói rằng trong bản tính nhân loại của Chúa Giê-su, “Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (2 Cr 5,l9).

4342812, 2614

Việc phục sinh của Chúa Giê-su làm hiển vinh thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ,20 bởi vì từ lúc đó Danh Giê-su bày tỏ cách trọn vẹn quyền năng tối thượng của “Danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9-10). Các Thần dữ khiếp sợ Danh Người,21 và nhân Danh Người, các môn đệ Chúa Giê-su làm nhiều phép lạ,22 bởi vì tất cả những gì họ xin Chúa Cha nhân danh Chúa Giê-su, Chúa Cha đều ban cho họ.23

4352667-2668, 2676

Danh Chúa Giê-su nằm ở trung tâm của kinh nguyện Ki-tô Giáo. Tất cả các lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con.” Tột đỉnh của Kinh Kính Mừng Ma-ri-a là câu “và Giê-su, con lòng Bà gồm phúc lạ.” Lời tâm nguyện của Giáo Hội Đông phương, gọi là “Lời khẩn nguyện Chúa Giê-su” (oratio Iesu) thưa lên rằng: “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Nhiều Ki-tô hữu đã chết khi miệng chỉ kêu danh thánh “Giê-su”, như thánh nữ Gioanna xứ Arc (Jean d’Arc).24

II. Đức Ki-tô (436-440)

436690, 695, 711-716, 783

Danh hiệu “Ki-tô” là một từ Hy Lạp, dịch từ “Mê-si-a” của tiếng Do-thái, có nghĩa là “người được xức dầu.” Danh hiệu này trở thành tên riêng của Chúa Giê-su bởi vì Người đã chu toàn cách hoàn hảo sứ vụ thần linh mà danh hiệu ấy bao hàm. Quả vậy, trong Ít-ra-en, những ai được thánh hiến cho Thiên Chúa để thi hành một sứ vụ Ngài giao phó, đều được xức dầu nhân danh Thiên Chúa. Đó là trường hợp của các vua,25 các tư tế26 và đôi khi, các tiên tri.27 Đó phải là, một cách tuyệt hảo, trường hợp của Đấng Mê-si-a, là người Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước của Ngài cách vĩnh viễn.28 Đấng Mê-si-a phải được xức dầu bằng Thần Khí của Chúa29 với tư cách là vua, đồng thời là tư tế,30 và cũng với tư cách là tiên tri.31 Chúa Giê-su đã thực hiện niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en trong ba nhiệm vụ của Người là Tư tế, Tiên tri và Vương đế.

437525, 486

Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của Chúa Giê-su, với tính cách là việc ra đời của Đấng Mê-si-a đã được hứa ban cho Ít-ra-en: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là ĐỨC CHÚA” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giê-su là “Đấng Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga 10,36), với tư cách là “Đấng Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Ma-ri-a.32 Thánh Giu-se được Thiên Chúa kêu gọi đón bà Ma-ri-a vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giê-su, “cũng gọi là Đấng Ki-tô” (Mt 1,16), được sinh ra do vợ ông Giu-se trong dòng tộc thiên sai (in generatione messianica) của vua Đa-vít.33

438727, 535

Việc được thánh hiến làm Đấng Mê-si-a của Chúa Giê-su biểu lộ sứ vụ thần linh của Người. “Trong danh hiệu ‘Ki-tô’ bao gồm Đấng xức dầu, Đấng được xức dầu, và chính việc xức dầu: Đấng xức dầu là Chúa Cha, Đấng được xức dầu là Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, Đấng là Việc xức dầu.”34 Việc xức dầu thánh hiến vĩnh cửu của Chúa Giê-su được mặc khải trong cuộc đời trần thế của Người khi Người chịu phép rửa bởi ông Gio-an, khi “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38) “để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en” (Ga 1,3l) trong tư cách là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa. Những việc Người làm và những lời Người dạy giúp cho chúng ta nhận biết Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa.”35

439528-529, 547

Nhiều người Do-thái, và cả một số người ngoại cùng chia sẻ niềm hy vọng của Ít-ra-en, đã nhận ra nơi Chúa Giê-su những nét cơ bản của “Con vua Đa-vít”, Đấng Mê-si-a mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Ít-ra-en.36 Chúa Giê-su đã chấp nhận danh hiệu Mê-si-a, Người có quyền làm như vậy,37 nhưng Người chấp nhận một cách dè dặt, bởi vì danh hiệu này bị một số người đương thời với Người hiểu theo một quan niệm quá phàm trần,38 đặc biệt mang tính chất chính trị.39

440552, 550, 445

Khi thánh Phê-rô tuyên xưng Người là Đấng Mê-si-a, Chúa Giê-su chấp nhận lời tuyên xưng đức tin đó, nhưng Người loan báo ngay cuộc khổ nạn đã gần đến của “Con Người.”40 Người tỏ cho thấy ý nghĩa đích thực của vương quyền Mê-si-a của Người, vừa trong căn tính siêu việt của Con Người, “Đấng từ trời xuống” (Ga 3,l3),41 vừa trong sứ vụ cứu chuộc của Người với tư cách là Người Tôi trung đau khổ: “Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).42 Do đó, ý nghĩa đích thực của vương quyền Người chỉ được biểu lộ cách tột đỉnh trên Thập Giá.43 Chỉ sau khi Người sống lại, thánh Phê-rô mới có thể công bố vương quyền Mê-si-a của Người trước mặt dân Thiên Chúa: “Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Chúa Giê-su mà anh em đã treo trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Chúa và làm Đấng Ki-tô” (Cv 2,36).

III. Con Một Đức Chúa Cha (441-445)

441

Trong Cựu Ước “Con Thiên Chúa” là danh hiệu được ban cho các Thiên thần,44 cho dân Chúa chọn,45 cho con cái Ít-ra-en,46 và cho các vua của họ.47 Trong những trường hợp ấy, danh hiệu “Con Thiên Chúa” nói lên việc Thiên Chúa nhận một số thụ tạo làm nghĩa tử, và việc này tạo nên những mối liên hệ thân tình đặc biệt giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Khi vị Vua Mê-si-a của lời hứa được gọi là “Con Thiên Chúa”,48 điều này, xét theo nghĩa văn tự của các bản văn nêu trên, không nhất thiết hàm ý rằng Người có bản tính vượt trổi phàm nhân. Những người đã gọi Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en49 có lẽ cũng không có ý muốn nói gì hơn.50

442552, 424

Trường hợp thánh Phê-rô thì khác, khi ông tuyên xưng Chúa Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”,51 bởi vì Chúa Giê-su đã long trọng trả lời ông: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt l6,l7). Tương tự như vậy, khi đề cập đến cuộc hối cải của mình trên đường đi Đamas, thánh Phao-lô đã nói: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Ngài. Ngài đã đoái thương mặc khải Con của Ngài cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Ngài cho các dân ngoại” (Gl 1,l5-16). “Lập tức, ông bắt đầu rao giảng Chúa Giê-su trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa” (Cv 9,20). Ngay từ đầu,52 điều này đã là trung tâm của đức tin tông truyền,53 đức tin mà thánh Phê-rô, với tư cách là nền tảng Hội Thánh, đã tuyên xưng trước hết.54

4432786

Nếu thánh Phê-rô có thể nhận ra tính chất siêu việt trong tư cách Con Thiên Chúa của Chúa Giê-su, Đấng Mê-si-a, thì đó là bởi vì chính Người đã nói lên điều đó cách rõ ràng. Trước Thượng Hội Đồng, khi những kẻ tố cáo hỏi Người: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?”, Chúa Giê-su trả lời: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây” (Lc 22,70).55 Trước đó đã lâu, Chúa Giê-su đã tự xưng mình là “Con”, là người biết rõ Chúa Cha,56 là người phân biệt mình với các “tôi tớ” mà Thiên Chúa đã sai đến trước với dân Ngài,57 là người trổi vượt trên cả các Thiên thần.58 Chúa Giê-su phân biệt tư cách làm “Con” của Người với tư cách làm con của các môn đệ Người vì không bao giờ Người nói “Cha chúng ta”,59 trừ lúc truyền dạy họ: “Anh em hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy Cha chúng con’” (Mt 6,9); và Người nhấn mạnh sự khác biệt giữa “Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em” (Ga 20,17).

444536, 554

Vào hai thời điểm quan trọng, lúc Đức Ki-tô chịu Phép Rửa và lúc Người Hiển Dung, các sách Tin Mừng nhắc đến tiếng Chúa Cha gọi Chúa Giê-su là “Con yêu dấu” của Ngài.60 Chính Chúa Giê-su cũng tự xưng là “Con Một” của Thiên Chúa (Ga 3,16) và qua danh hiệu đó, xác quyết sự tiền hữu vĩnh cửu (aeternam praeexsistentiam) của mình.61 Người đòi phải tin vào “danh Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,l8). Lời tuyên xưng này của Ki-tô Giáo đã xuất hiện ngay từ tiếng kêu của viên đại đội trưởng trước mặt Chúa Giê-su trên thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc l5,39). Chỉ trong mầu nhiệm Vượt Qua, người tin tước hiệu “Con Thiên Chúa” mới có thể hiểu được ý nghĩa cao cả nhất của tước hiệu đó.

445653

Sau khi Người phục sinh, tư cách Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô tỏ rạng trong quyền năng của nhân tính được tôn vinh của Người. “Từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1,4).62 Các Tông Đồ có thể tuyên xưng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,l4).

IV. Chúa (446-451)

446209

Trong bản dịch các sách Cựu ước ra tiếng Hy-lạp, YHWH, danh không thể xưng mà Thiên Chúa dùng để tự mặc khải cho ông Mô-sê,63 được dịch là Kyrios (“Chúa”). Từ đó, tước hiệu “Chúa” trở thành danh xưng thông dụng nhất để nói lên chính thần tính của Thiên Chúa Ít-ra-en. Tân Ước dùng tước hiệu “Chúa”, theo nghĩa mạnh như trên, cho Chúa Cha, và đồng thời, và đây là điều mới mẻ, cũng dùng cho Chúa Giê-su, qua đó nhìn nhận Người chính là Thiên Chúa.64

447548

Chính Chúa Giê-su nhận tước hiệu ấy cho mình một cách mặc nhiên khi tranh luận với các người Pha-ri-sêu về ý nghĩa thánh vịnh 110,65 nhưng khi nói chuyện với các Tông Đồ thì Người nhận một cách minh nhiên.66 Trong suốt cuộc đời công khai của Người, những cử chỉ thống trị của Chúa Giê-su trên thiên nhiên, trên bệnh tật, trên ma quỷ, trên sự chết và tội lỗi, chứng tỏ Người có quyền tối thượng của Thiên Chúa.

448208, 683, 641

Trong các sách Tin Mừng, khi thưa chuyện với Chúa Giê-su, người ta rất thường gọi Người là “Chúa.” Tước hiệu này cho thấy lòng tôn kính và tin tưởng của những người đến với Chúa Giê-su và mong đợi Người cứu giúp và chữa lành.67 Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, khi thưa như vậy, người ta nhìn nhận mầu nhiệm thần linh của Chúa Giê-su.68 Khi gặp gỡ Chúa Giê-su Phục sinh, việc gọi tước hiệu ấy trở thành việc thờ lạy: “Lạy Chúa của con! lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Lúc đó, việc gọi Người như vậy còn mang ý nghĩa kính yêu và thân ái, là điểm riêng của truyền thống Ki-tô Giáo: “Chúa đó!” (Ga 21,7).

449461, 653

Khi dành cho Chúa Giê-su tước hiệu thần linh là “Chúa”, những lời tuyên xưng đức tin tiên khởi của Hội Thánh xác quyết ngay từ đầu69 rằng quyền năng, danh dự và vinh quang thuộc về Chúa Cha cũng thuộc về Chúa Giê-su,70 bởi vì Người “vốn dĩ là Thiên Chúa” (Pl 2,6), và bởi vì Chúa Cha đã làm tỏ hiện quyền chủ tể này của Chúa Giê-su khi cho Người sống lại từ cõi chết và tôn dương Người trong vinh quang của Ngài.71

450668-672, 2242

Ngay từ đầu lịch sử Ki-tô Giáo, việc xác quyết quyền chủ tể của Chúa Giê-su trên trần gian và trên lịch sử72 cũng có nghĩa là nhìn nhận rằng, con người không được để cho tự do cá nhân của mình suy phục một cách tuyệt đối bất cứ quyền bính trần thế nào, nhưng chỉ suy phục một mình Thiên Chúa là Cha và Chúa Giê-su Ki-tô: Hoàng đế Xê-da không phải là “Chúa.”73 Hội Thánh “tin rằng mình gặp được chìa khóa, trung tâm và cứu cánh của toàn thể lịch sử nhân loại nơi Chúa và Thầy của mình.”74

4512664-2665, 2817

Kinh nguyện Ki-tô Giáo được ghi dấu bằng tước hiệu “Chúa”, dù là lời mời gọi cầu nguyện “Chúa ở cùng anh chị em”, dù là câu kết thúc lời nguyện: “Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, hay cả trong tiếng kêu đầy tin tưởng và hy vọng “Maran atha” (“Chúa đến!”) hoặc “Marana tha” (“Lạy Chúa, xin ngự đến!”) (l Cr l6,22). “A-men. Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20).

Tóm lược (452-455)

452

Thánh Danh Giê-su có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ.” Hài nhi sinh bởi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a được gọi là “Giê-su”: “Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). “Dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).

453

Danh hiệu “Ki-tô” có nghĩa là “Đấng được xức dầu”, “Đấng Mê-si-a.” Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô bởi vì “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Người là “Đấng phải đến” (Lc 7,19), là đối tượng của niềm hy vọng của Ít-ra-en.75

454

Danh hiệu “Con Thiên Chúa” nói lên mối tương quan duy nhất và vĩnh cửu của Chúa Giê-su Ki-tô với Thiên Chúa, Cha của Người. Người là Con Một của Chúa Cha76 và là chính Thiên Chúa.77 Ai muốn trở thành Ki-tô hữu, người ấy nhất thiết phải tin rằng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa.78

455

Danh hiệu “Chúa” nói lên quyền tối thượng của Thiên Chúa. Tuyên xưng hay kêu cầu Chúa Giê-su là Chúa, là tin vào thần tính của Người. “Không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12,3).


Chú thích

10 X. Lc 1,31.

11 X.Tv 51,6.

12 X.Tv 51,11.

13 X. Tv 79,9.

14 X. Cv 5,41; 3 Ga 7.

15 X. Ga 3,18; Cv 2,21.

16 X. Rm 10,6-13.

17 X. Cv 9,14; Gc 2,7.

18 X. Lv 16,15-16; Gv 50,22; Dt 9,7.

19 X. Xh 25,22; Lv 16,2; Ds 7,89; Dt 9,5.

20 X. Ga 12,28.

21 X. Cv 16,16-18; 19,13-16.

22 X. Mc 16,17.

23 X. Ga l5,l6.

24 X. La réhabilitation de Jeanne la Pucelle. L’enquête ordonnée par Charles VII en 1450 et le codicille de Guillaume Bouillé, ed. P. Doncoeur-Y. Lanhers (Paris 1956) 39.45.56.

25 X. 1 Sm 9,16; 10,1; 16,1.12-13; 1 V 1,39.

26 X. Xh 29,7; Lv 8,12.

27 X. 1V 19,16.

28 X. Tv 2,2; Cv 4,26-27.

29 X. Is 11,2.

30 X. Zc 4,14; 6,13.

31 X. Is 61,1; Lc 4,16-21.

32 X. Lc 1,35.

33 X. Rm 1,3; 2 Tm 2,8; Kh 22,l6.

34 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 18, 3: SC 211,350 (PG 7,934).

35 X. Mc 1,24; Ga 6,69; Cv 3,l4.

36 X. Mt 2,2; 9,27, 12,23; 15,22; 20,30; 21,9.15.

37 X. Ga 4,25-26; 11,27.

38 X. Mt 22,41-46.

39 X. Ga 6,l5; Lc 24,2l.

40 X. Mt l6,l6-23.

41 X. Ga 6,62; Đn 7,13.

42 X. Is 53,10-12.

43 X. Ga l9,19-22; Lc 23,39-43.

44 X. Đnl (LXX) 32,8; G 1,6.

45 X. Xh 4,22; Hs 11,1; Gr 3,l9; Gv 36,14; Kn l8,l3.

46 X. Đnl l4,1; Hs 2,1.

47 X. 2 Sm 7,l4; Tv 82,6.

48 X. 1 Sbn 17,13; Tv 2,7.

49 X. Mt 27,54.

50 X. Lc 23,47.

51 X. Mt 16,16.

52 X. 1 Tx 1,10.

53 X. Ga 20,3l.

54 X. Mt l6,l8.

55 X. Mt 26,64; Mc 14,62.

56 X. Mt 11,27; 21,37-38.

57 X. Mt 21,34-36.

58 X. Mt 24,36.

59 X. Mt 5,48; 6,8; 7,21; Lc 11,13.

60 X. Mt 3,17; 17,5.

61 X. Ga 10,36.

62 X. Cv 13,33.

63 X. Xh 3,14.

64 X. 1 Cr 2,8.

65 X. Mt 22,41-46; Cv 2,34-36; Dt 1,13.

66 X. Ga 13,13.

67 X. Mt 8,2; 14,30; 15,22.

68 X. Lc 1,43; 2,11.

69 X. Cv 2,34-36.

70 X. Rm 9,5; Tt 2,13; Kh 5,13.

71 X. Rm 10,9; 1 Cr 12,3; Pl 2,9-11.

72 X. Kh 11,15.

73 X. Mc 12,17; Cv 5,29.

74 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 10: AAS 58 (1966) 1033; x. Ibid., 45: AAS 58 (1966) 1066.

75 X. Cv 28,20.

76 X. Ga 1,14.18; 3,16.18.

77 X. Ga 1,1.

78 X. Cv 8,37; 1 Ga 2,23.

Scroll to Top