Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

1992083

“Tôi tin kính Đức Chúa Trời”: lời xác quyết đầu tiên của bản tuyên xưng đức tin cũng là điều quan trọng nhất. Toàn bộ Tín biểu đều nói về Thiên Chúa, và nếu có nói về con người và về trần gian, thì cũng nói trong tương quan với Thiên Chúa. Tất cả các mục trong bản Tuyên xưng đức tin đều lệ thuộc vào mục thứ nhất này, cũng như các giới răn của Thiên Chúa đều nhằm giải thích giới răn thứ nhất. Những mục khác giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa hơn, theo mức độ Ngài đã từng bước tự mặc khải cho con người. “Vì vậy, một cách đúng đắn, các tín hữu trước tiên tuyên xưng họ tin vào Thiên Chúa.”1

I. “Tôi tin kính một Thiên Chúa” (200-202)

2002085

Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli bắt đầu bằng những lời trên đây. Việc tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất bắt nguồn từ mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Việc tuyên xưng này không thể tách biệt khỏi việc tuyên xưng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và cũng có giá trị hết sức căn bản. Thiên Chúa là Đấng duy nhất: chỉ có một Thiên Chúa. “Vì vậy, đức tin Ki-tô Giáo tin và tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa, xét theo bản tính, bản thể và yếu tính.”2

2012083

Thiên Chúa tự mặc khải cho Ít-ra-en, dân Ngài chọn, rằng Ngài là Đấng Duy Nhất: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5). Qua các Tiên tri, Thiên Chúa kêu gọi Ít-ra-en và các dân tộc trở lại với Ngài, là Đấng Duy Nhất: “Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác… Trước mặt Ta, mọi người sẽ qùy gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình ĐỨC CHÚA mới cứu độ và làm cho mạnh sức” (Is 45,22-24).3

202446, 152, 42

Chính Chúa Giê-su xác quyết rằng Thiên Chúa là “Chúa Duy Nhất”, và phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí và hết sức lực.4 Đồng thời, Người cũng minh định rằng chính Người là “Chúa.”5 Tuyên xưng “Đức Giê-su là Chúa” là nét đặc thù của đức tin Ki-tô Giáo. Điều này không trái ngược với đức tin vào một Thiên Chúa Duy Nhất. Tin vào Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống” không hề đưa đến sự chia cắt nào nơi Thiên Chúa Duy Nhất:

“Chúng tôi tin cách vững vàng và tuyên xưng cách đơn sơ rằng chỉ có Một Thiên Chúa chân thật, vĩnh cửu, vô hạn và bất biến, vô phương thấu hiểu, toàn năng và khôn tả, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ba Ngôi Vị, nhưng chỉ có một yếu tính, một bản thể hoặc một bản tính hoàn toàn đơn nhất.”6

II. Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài (203-213)

2032143

Thiên Chúa tự mặc khải cho Ít-ra-en, dân của Ngài, tỏ cho họ biết Danh Ngài. Tên gọi diễn tả yếu tính, căn tính của một người và ý nghĩa cuộc đời của người đó. Thiên Chúa có một tên gọi. Ngài không phải là một sức mạnh vô danh. Cho biết tên gọi của mình là cho những người khác nhận biết mình, một cách nào đó là tự trao mình, để người ta có thể tiếp xúc với mình, có thể hiểu biết mình cách thân mật hơn, và thật sự có thể gọi mình một cách cá vị.

20463

Thiên Chúa đã tự mặc khải cho dân Ngài một cách tiệm tiến và dưới nhiều danh xưng khác nhau. Tuy nhiên, việc mặc khải tôn danh Thiên Chúa cho ông Mô-sê trong cuộc thần hiện nơi bụi gai cháy bừng, để dẫn đến cuộc Xuất Hành và Giao Ước Xi-nai, được coi như một mặc khải căn bản cho cả Cựu và Tân Ước.

Thiên Chúa hằng sống (205)

2052575, 268

Thiên Chúa gọi ông Mô-sê từ giữa bụi gai cháy bừng nhưng không tàn lụi. Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob” (Xh 3,6). Thiên Chúa là Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã kêu gọi và hướng dẫn các Tổ phụ trong các cuộc lữ hành của họ. Ngài là Thiên Chúa trung tín và thương xót, Đấng nhớ tới họ và nhớ các lời Ngài đã hứa; Ngài đến để giải thoát con cháu họ khỏi ách nô lệ. Ngài là Thiên Chúa, Đấng, vượt quá thời gian và không gian, có khả năng và ý muốn làm điều đó, và là Đấng sẽ dùng sự toàn năng của mình để thực hiện kế hoạch này.

“Ta là Đấng Hiện Hữu” (206-209)

“Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: ‘Bây giờ, con đến gặïp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?’ Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’. Ngài phán: ‘Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu” sai tôi đến với anh em… Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia’” (Xh 3,13-l5).

20643

Khi mặc khải Danh thánh bí nhiệm YHWH của Ngài, nghĩa là, “Ta là Đấng Hiện Hữu” hoặc “Ta là Đấng Ta là”, hoặc “Ta chính là Ta”, Thiên Chúa nói Ngài là ai và phải gọi tên Ngài như thế nào. Danh thánh này có tính chất huyền nhiệm cũng như Thiên Chúa là mầu nhiệm. Đó vừa là Danh được mặc khải, vừa như là từ chối một Danh xưng, và vì vậy, Danh này diễn tả Thiên Chúa một cách tốt nhất, vì Ngài là Đấng vô cùng vượt quá tất cả những gì chúng ta có thể hiểu biết và nói lên: Ngài là “Thiên Chúa ẩn mình” (Is 45,15), Danh thánh Ngài không thể gọi được,7 và vị Thiên Chúa đó là Đấng tự làm cho mình nên gần gũi với con người.

207

Khi mặc khải Danh Ngài, Thiên Chúa đồng thời mặc khải lòng trung tín của Ngài, một lòng trung tín có từ muôn thuở và cho tới muôn đời, một lòng trung tín có giá trị trong quá khứ (“Ta là Thiên Chúa của cha ngươi”, Xh 3,6) cũng như trong tương lai (“Ta sẽ ở với ngươi”, Xh 3,12). Thiên Chúa, Đấng mặc khải Danh Ngài là “Đấng Hiện Hữu”, đã tự mặc khải mình là vị Thiên Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện với dân Ngài để cứu độ họ.

208724, 448, 388

Trước sự hiện diện cuốn hút và huyền nhiệm của Thiên Chúa, con người nhận ra sự nhỏ bé của mình. Trước bụi gai cháy bừng, ông Mô-sê cởi dép và che mặt trước tôn nhan Thiên Chúa chí thánh.8 Trước vinh quang của Thiên Chúa ba lần thánh, tiên tri I-sai-a thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế” (Is 6,5). Trước những dấu chỉ thần linh Chúa Giê-su thực hiện, ông Phê-rô thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng Thánh, nên Ngài có thể tha thứ cho kẻ nhận biết mình là tội nhân trước mặt Ngài: “Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận…, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Hs 11,9). Tông đồ Gio-an cũng sẽ nói tương tự: “Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3,19-20).

209446

Vì tôn kính sự thánh thiện của Thiên Chúa, dân Ít-ra-en không gọi Danh của Ngài. Khi đọc Thánh Kinh, người ta thay thế Danh được mặc khải bằng tước hiệu thần linh là “Chúa” (Adonai, tiếng Hy-lạp là Kyrios). Thần tính của Chúa Giê-su sẽ được tuyên xưng bằng tước hiệu này: “Đức Giê-su là Chúa.”

“Thiên Chúa nhân hậu và từ bi” (210-211)

2102116, 2577

Sau khi dân Ít-ra-en phạm tội, chối bỏ Thiên Chúa để quay sang thờ con bê bằng vàng,9 Thiên Chúa đã nghe lời chuyển cầu của ông Mô-sê và chấp nhận đồng hành giữa đám dân bất trung, qua đó biểu lộ tình yêu của Ngài.10 Khi ông Mô-sê xin được thấy vinh quang Thiên Chúa, Ngài trả lời: “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Chúa [YHWH] trước mặt ngươi” (Xh 33,18-l9). Và Chúa đi qua trước mặt ông Mô-sê và hô to: “Chúa, Chúa [YHWH,YHWH], Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,5-6). Lúc đó ông Mô-sê tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa hay tha thứ.11

211604

Thánh Danh “Ta Hiện Hữu” hoặc “Đấng Hiện Hữu” diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng “giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ” (Xh 34,7) cho dù con người có bất trung, tội lỗi, đáng phải trừng phạt. Thiên Chúa mặc khải rằng Ngài “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4), đến nỗi trao ban chính Con Một của Ngài. Chúa Giê-su, khi hiến mạng sống mình để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, sẽ mặc khải rằng chính Người mang danh thánh của Thiên Chúa: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là ‘Tôi Hiện Hữu’” (Ga 8,28).

Chỉ mình Thiên Chúa là ĐẤNG HIỆN HỮU (212-213)

21242, 469, 2086

Trải qua các thế kỷ, đức tin của Ít-ra-en đã có thể khai triển và đào sâu hơn nữa các ý nghĩa phong phú chứa đựng trong việc mặc khải Danh thánh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là duy nhất, ngoài Ngài ra không có thần nào hết.12 Ngài siêu việt trên vũ trụ và lịch sử. Chính Ngài tạo dựng trời đất. “Chúng tiêu tan, Chúa còn hoài; chúng như áo cũ thảy rồi mòn hao… Nhưng chính Ngài tiền hậu y nguyên; tháng năm Ngài vẫn triền miên” (Tv 102,27-28). Nơi Ngài, “không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1,17). Ngài là “Đấng Hiện Hữu” từ muôn thuở đến muôn đời và như vậy, Ngài là Đấng luôn trung tín với chính mình Ngài và với các lời hứa của Ngài.

21341

Vì vậy, việc mặc khải Danh khôn tả “Ta là Đấng Ta là” chứa đựng chân lý này: chỉ mình Thiên Chúa là ĐẤNG HIỆN HỮU. Bản dịch Bảy Mươi và kế đó là Truyền thống Hội Thánh đã hiểu Danh thánh của Thiên Chúa theo nghĩa đó: Thiên Chúa là sự viên mãn của sự Hiện Hữu và của mọi trọn hảo, không có khởi đầu, và cũng chẳng có cùng tận. Trong khi tất cả mọi thụ tạo đều lãnh nhận từ Thiên Chúa tất cả những gì chúng là và những gì chúng có, thì duy chỉ mình Ngài là tự mình hiện hữu và Ngài là gì đều do chính Ngài.

III. Thiên Chúa, “Đấng Hiện Hữu”, là chân lý và là tình yêu (214-221)

2141062

Thiên Chúa, “Đấng Hiện Hữu”, đã tự mặc khải cho Ít-ra-en như Đấng “giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Hai từ ngữ ấy diễn tả một cách cô đọng những sự phong phú của Danh Thiên Chúa. Trong mọi công trình của Ngài, Thiên Chúa biểu lộ lòng quảng đại, sự tốt lành, ân sủng và tình yêu của Ngài; Ngài cũng cho thấy Ngài là Đấng đáng được tin tưởng, là Đấng bền vững, trung tín, chân thật: “Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương” (Tv 138,2).13 Ngài là Chân Lý, vì “Thiên Chúa là Ánh Sáng, nơi Ngài không có một chút bóng tối nào” (1 Ga 1,5); Ngài là “Tình Yêu” (1 Ga 4,8), như thánh Tông Đồ Gio-an dạy.

Thiên Chúa là Chân Lý (215-217)

2152465, 1063, 156, 397

“Căn nguyên lời Ngài là chân lý, mọi quyết định công minh của Ngài tồn tại muôn năm” (Tv 119,160). “Lạy Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý” (2 Sm 7,28); vì vậy, những lời Thiên Chúa hứa luôn luôn được thực hiện.14 Thiên Chúa là chính Chân Lý, những lời của Ngài không thể là sai lầm. Vì vậy, người ta có thể, một cách hoàn toàn tin tưởng, phó mình cho sự thật và sự trung tín của lời Ngài trong mọi sự. Khởi đầu của tội lỗi và của sự sa ngã của loài người là lời dối trá của Tên Cám Dỗ, nó dẫn con người đến chỗ nghi ngờ lời Thiên Chúa, nghi ngờ lòng nhân hậu và sự trung tín của Ngài.

216295, 32

Chân lý của Thiên Chúa là sự khôn ngoan của Ngài, chỉ huy toàn bộ trật tự của việc tạo dựng và việc điều hành trần gian.15 Một mình Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất,16 nên duy một mình Ngài có thể ban sự hiểu biết đích thực về mọi thụ tạo trong tương quan của chúng với Ngài.17

217851, 2466

Thiên Chúa cũng là Đấng chân thật khi Ngài tự mặc khải: giáo huấn đến từ Thiên Chúa là “Luật của chân lý” (Ml 2,6). Ngài sai Con của Ngài “đến thế gian,” chính là để “làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). “Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật” (l Ga 5,20).18

Thiên Chúa là Tình Yêu (218-221)

218295

Theo dòng lịch sử của mình, Ít-ra-en đã có thể khám phá ra rằng Thiên Chúa chỉ có một động lực duy nhất khiến Ngài tự mặc khải cho họ và chọn họ giữa mọi dân để họ là dân của Ngài: đó là tình yêu nhưng không của Ngài.19 Nhờ các Tiên tri, Ít-ra-en hiểu rằng, cũng vì tình yêu mà Thiên Chúa đã không ngừng giải cứu họ20 và tha thứ cho sự bất trung và tội lỗi của họ.21

219239, 796, 458

Tình yêu của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en được so sánh với tình yêu của một người cha đối với con mình.22 Tình yêu đó còn mạnh hơn tình yêu của một người mẹ dành cho con cái mình.23 Thiên Chúa yêu dân Ngài hơn người chồng yêu người vợ yêu dấu của mình.24 Tình yêu đó cũng sẽ chiến thắng những bất trung thậm chí tồi tệ nhất,25 và sẽ đi đến chỗ ban tặng hồng ân quý giá nhất: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài” (Ga 3,16).

220

Tình yêu của Thiên Chúa “tồn tại muôn đời” (Is 54,8): “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi” (Is 54,10). “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3).

221733, 851, 257

Thánh Gio-an còn đi xa hơn nữa khi làm chứng rằng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8.16): Chính Hữu Thể của Thiên Chúa là tình yêu. Khi sai Con Một của Ngài và Thánh Thần Tình Yêu lúc thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa mặc khải điều bí ẩn thâm sâu nhất của Ngài:26 chính Ngài là sự trao đổi tình yêu vĩnh cửu: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và Ngài đã tiền định cho chúng ta được dự phần vào sự trao đổi tình yêu đó.

IV. Những hệ quả của đức tin vào Thiên Chúa duy nhất (222-227)

222

Tin vào Thiên Chúa, Đấng duy nhất, và yêu mến Ngài hết mình, có những hệ quả rất quan trọng cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta.

223400

Đó là nhận biết sự vĩ đại và quyền năng của Thiên Chúa: “Hãy xem, Thiên Chúa cao vời, làm sao ta hiểu thấu” (G 36,26). Vì vậy, Thiên Chúa phải là Đấng “được phục vụ trước hết.”27

2242637

Đó là sống trong tâm tình cảm tạ: nếu Thiên Chúa là Đấng duy nhất, thì chúng ta là gì, và có gì, đều là bởi Ngài: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (l Cr 4,7). “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Ngài đã ban cho?” (Tv 116,12).

225356, 360, 1700, 1934

Đó là nhận biết sự hợp nhất và phẩm giá đích thực của mọi người: Mọi người đều được dựng nên “theo hình ảnh và giống như” Thiên Chúa (St 1,26).

226339, 2402, 2415

Đó là sử dụng các thụ tạo cách đúng đắn: đức tin vào Thiên Chúa Duy Nhất hướng dẫn chúng ta sử dụng mọi vật không phải là Thiên Chúa nếu chúng đưa chúng ta đến với Ngài, và xa tránh các thụ tạo nếu chúng ngăn cách chúng ta khỏi Thiên Chúa:28

“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin cất khỏi con những gì làm con xa Chúa.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin ban cho con những gì đưa con đến với Chúa.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giải thoát con khỏi chính mình con và ban cho con được hoàn toàn thuộc về Chúa.”29

227313, 2090, 2830, 1723

Đó là luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, cả khi gặp nghịch cảnh. Một lời kinh của thánh Têrêsa Giê-su diễn tả ý đó một cách tuyệt vời:

“Đừng để điều gì làm cho bạn xao xuyến; Đừng để điều gì làm cho bạn lo sợ.
Mọi sự đều qua đi, Thiên Chúa không thay đổi!
Kiên nhẫn sẽ được tất cả.
Ai có Thiên Chúa, người ấy chẳng thiếu gì:
Chỉ có Thiên Chúa, là đã đủ.”30

Tóm lược (228-231)

228

“Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất” (Đnl 6,4; Mc 12,29) “Hữu Thể tối cao nhất thiết phải là duy nhất, nghĩa là không ai sánh bằng… Nếu Thiên Chúa không duy nhất, thì Ngài không phải là Thiên Chúa.”31

229

Đức tin vào Thiên Chúa quy hướng chúng ta về một mình Ngài, như về nguồn gốc đầu tiên và về cùng đích tối hậu của chúng ta, và không quý trọng sự gì hơn Ngài, hoặc không để một sự gì thay chỗ Ngài.

230

Tuy đã tự mặc khải, Thiên Chúa vẫn còn là mầu nhiệm khôn tả: “Nếu bạn hiểu được, thì Ngài không phải là Thiên Chúa.”32

231

Thiên Chúa của đức tin chúng ta đã tự mặc khải là Đấng Hiện Hữu; Ngài cho chúng ta biết Ngài là Đấng “giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Bản thể của Ngài là chân lý và tình yêu.


Chú thích

1 Catechismus Romanus, 1, 2, 6: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 23.

2 Catechismus Romanus, 1, 2, 8: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 26.

3 X. Pl 2,10-11.

4 X. Mc 12,29-30.

5 X. Mc 12,35-37.

6 CĐ La-tê-ra-nô IV, C. 1, De fide Catholica: DS 800.

7 X. Tl 13,18.

8 X. Xh 3,5-6.

9 X. Xh 32.

10 X. Xh 33,12-17.

11 X. Xh 34,9.

12 X. Is 44,6.

13 X. Tv 85,11.

14 X. Đnl 7,9.

15 X. Kn 13,1-9.

16 X. Tv 115,15.

17 X. Kn 7,17-21.

18 X. Ga 17,3.

19 X. Đnl 4,37; 7,8; 10,15.

20 X. Is 43,1-7.

21 X. Hs 2.

22 X. Hs 11,1.

23 X. Is 49,14-15.

24 X. Is 62,4-5.

25 X. Ed 16; Hs 11.

26 X. 1 Cr 2,7-16; Ep 3,9-12.

27 Thánh Gioana xứ Arc [Jean d’Arc], Dictum: Procès de condamnation, ed. P. Tisset Y. Lanhers, v.1 (Paris 1960) 280 và 288.

28 X. Mt 5,29-30; 16,24; 19,23-24.

29 Thánh Nicôla Flue, Bruder-Klausen-Gebet, apud R. Amschwand, Bruder Klaus. Ergnzungsband zum Quellenwerk von R. Durrer (Sarnen 1987) 215.

30 Thánh Tê-rê-sa Giê-su, Poesia, 9: Biblioteca Mistica Carmelitana, v.6 (Burgos 1919) 90.

31 Tertullianô, Adversus Marcionem 1, 3, 5: CCL 1,444 (PL 2,274).

32 Thánh Augustinô, Sermo, 52, 6, 16: ed. P. Verbraken: Revue Bénédictine 74 (1964) 27 (PL 38,360).

Scroll to Top