01. Chú giải Tin Mừng Mát-thêu
05. Chú giải Sách Công Vụ Tông Đồ
13. Chú giải Thư 1 Thê-xa-lô-ni-ca
14. Chú giải Thư 2 Thê-xa-lô-ni-ca
20. Chú giải Thư của Thánh Gia-cô-bê
21. Chú giải Thư 1 của Thánh Phê-rô
22. Chú giải Thư 2 của Thánh Phê-rô
23. Chú giải Thư 1 của Thánh Gio-an
24. Chú giải Thư 2 của Thánh Gio-an
25. Chú giải Thư 3 của Thánh Gio-an
Chú giải Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu – Lược dịch từ cuốn Chú Giải Kinh Thánh của linh mục Công Giáo người Anh – George Leo Haydock (1774-1849). Trong quá trình dịch có bổ sung tri thức tham khảo từ một số học giả Công Giáo khác.
Nhập đề
Tên gọi của các sách Tin Mừng cùng với tên riêng của các nhà truyền giáo không có nghĩa rằng những gì được viết trong sách chỉ đơn thuần là lời của các tác giả, nhưng là Lời Chúa được các tác giả ghi chép lại dựa trên thẩm quyền thiêng liêng và cảm hứng thiêng liêng. Trong Kinh Thánh cũng không có đoạn nào nói với chúng ta rằng những cuốn sách này là chân thực hay thuộc về quy điển. Nhưng dựa vào truyền thống, bằng chứng xác thực và thẩm quyền của Giáo Hội Công Giáo, chúng ta biết và tin tưởng chắc chắn vào những gì được viết ra.
Thánh Mát-thêu, tác giả của cuốn Tin Mừng này, là một người Do-thái sống tại Ga-li-lê và làm nghề thu thuế. Ông còn có một tên gọi khác là Lê-vi và là con của ông An-phê (Mc 2,14). Ông được Chúa Giê-su kêu gọi vào năm thứ hai trong sứ vụ rao giảng của Ngài. Trước khi rời Giu-đê để đi rao giảng Tin Mừng cho các quốc gia xa xôi, vào năm thứ tám sau khi Chúa Phục Sinh (năm 41 SCN), được đức tin thúc đẩy, ông đã viết cuốn Phúc Âm này.
Đề tài chính của Tin Mừng Mát-thêu là chứng minh Chúa Giê-su chính là Đấng Mê-si-a mà Cựu Ước tiên báo. Đối tượng độc giả chính được hướng tới là người Do-thái.
Chương 1
Câu 1. Lời giới thiệu Đức Giê-su Ki-tô là con cháu Vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham khẳng định bản tính con người (nhân tính) bên cạnh bản tính Thiên Chúa (Thiên tính) trong Ngài. Cũng trong câu này, ta thấy lần đầu tiên tên gọi của Chúa. Tên riêng Giê-su trong tiếng Do-thái (Jesuah) nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Độ”. Còn danh xưng Ki-tô có nghĩa là “người được xức dầu”. Mặc dù trong Cựu Ước, ta thấy nhiều vị vua, tư tế, ngôn sứ cũng được xức dầu nhưng Đức Giê-su trổi vượt hơn họ vì Ngài được xức dầu bởi Thiên Chúa: “Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của ngài đã tôn phong ngài vượt trổi các đồng liêu mà xức cho dầu thơm hoan lạc” (Tv 45,9; Dt 1,9).
Câu 2. Gia phả được bắt đầu từ ông Áp-ra-ham. Như vậy, lời hứa của Thiên Chúa với ông đã được thực hiện qua Đức Giê-su Ki-tô: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3).
Câu 3. Xem St 38,6.
Câu 5. Không có chi tiết nào trong Cựu Ước nhắc đến cuộc hôn nhân của Xan-môn (R 4,19) và Ra-kháp (Gs 2,1). Tuy nhiên, điều này có thể được biết đến bởi truyền thống và nhà truyền giáo đã được linh hứng và xác nhận. Ra-kháp là một cô gái điếm ở Giê-ri-khô, người đã giúp ông Giô-suê do thám vùng đất này sau khi đưa dân Do-thái rời khỏi Ai-cập. Trong gia phả Đức Giê-su, có bốn người phụ nữ được nhắc đến, trong đó, hai người là người ngoại (Ra-kháp và Rút) và hai người phạm tội ngoại tình (Ta-ma và vợ ông U-ri-gia). Qua chi tiết này, những người tội lỗi có thể tìm thấy căn cứ để tin vào lòng thương xót của Chúa Giê-su Ki-tô và hy vọng được Người tha thứ. Để cứu độ chúng ta, Người không chỉ hạ mình bằng cách xuống thế cùng chung kiếp người với chúng ta mà còn bắt nguồn từ một dòng dõi có những người tội lỗi.
Câu 6. Theo Thánh Gio-an Kim Khẩu:
Có thể bạn sẽ đặt ra câu hỏi là tại sao chúng ta nói rằng Đức Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít, trong khi:
Thứ nhất, dựa vào gia phả thì Thánh Giu-se là con cháu vua Đa-vít, nhưng Đức Ma-ri-a mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Tên của bà cũng không được nhắc tới trong gia phả này.
Thứ hai, nếu Đức Ma-ri-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít thì chúng ta lấy cơ sở nào để khẳng định?
Để giải thích, chúng ta dựa vào Tin Mừng theo Thánh Lu-ca:
Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. (Lc 1,26-27)
Như vậy, Đức Ma-ri-a đã thành hôn với Thánh Giu-se. Theo truyền thống của người Do-thái, người con gái sẽ chỉ lấy người trong cùng chi tộc của cha mình để gìn giữ gia nghiệp của cha ông:
chúng sẽ lấy người vừa mắt chúng, nhưng chỉ được lấy người thuộc thị tộc trong chi tộc của cha chúng. Như thế, gia nghiệp con cái Ít-ra-en sẽ không chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng mỗi người con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của chi tộc cha ông mình. (Ds 36,6-7)
Qua đó, có thể khẳng định rằng Đức Ma-ri-a cũng thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Tất nhiên, sẽ có những người lập luận rằng có thể Thánh Giu-se thành hôn với một người con gái không cùng chi tộc với mình. Nhưng nhà truyền giáo đã ngăn chặn sự nghi ngờ này bằng cách làm chứng rằng Thánh Giu-se là một người công chính và chắc chắn sẽ không vi phạm Lề Luật.
Cũng cần nói thêm rằng người Do-thái không có truyền thống ghi chép về phụ nữ trong gia phả. Nhà truyền giáo đã tôn trọng truyền thống này thay vì ghi lại gia phả liên quan đến Đức Ma-ri-a. Và Đức Giê-su cũng được thừa hưởng mọi quyền trong gia đình từ người cha nuôi Giu-se. Như thánh Phao-lô đã khẳng định trong Thư gửi tín hữu Rô-ma: “Xét như một người phàm, Ðức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Ða-vít” (Rm 1,3b).
Câu 8. Giô-ram sinh Út-di-gia – Cần lưu ý rằng ba thế hệ đã bị lược bớt ở chi tiết này. Dựa vào 2 Sb 21-26, ta biết rằng: Giô-ram sinh A-khát-gia-hu, A-khát-gia-hu sinh Giô-át, Giô-át sinh A-mát-gia-hu, A-mát-gia-hu sinh Út-di-gia. Vậy đúng ra Giô-ram là ông cố chứ không phải là cha của Út-di-gia. Chi tiết này thực chất không ảnh hưởng tới toàn bộ gia phả. Có thể nhà truyền giáo đã lược bớt ba thế hệ kể trên để đảm bảo cuốn gia phả được chia ra ba phần, mỗi phần gồm mười bốn đời. Ngoài ra, cũng có lẽ vì ba triều vua bị lược bớt là các vua không đẹp lòng Thiên Chúa, họ không sống theo đường lối của Người và đi vào con đường thờ quấy, hay đúng hơn, họ là dòng dõi vua A-kháp bị Thiên Chúa nguyền rủa qua sấm ngôn: “Này, Ta sẽ giáng tai họa xuống trên ngươi: Ta sẽ xóa sạch hậu duệ ngươi, Ta sẽ tiêu diệt các đàn ông con trai của A-kháp trong Ít-ra-en, đang bị ràng buộc hay được tự do. Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà Gia-róp-am, con của Nơ-vát, và như nhà Ba-sa con của A-khi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và đã làm cho Ít-ra-en phạm tội” (1 V 21,21-22).
Câu 11. Như câu 17 đề cập, gia phả Đức Giê-su được chia làm ba phần, mỗi phần gồm mười bốn đời. Phần thứ nhất bắt nguồn từ ông Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, phần thứ hai bắt đầu từ vua Sa-lô-môn tới vua Giơ-khon-gia và phần thứ ba, nếu không tính vua Giơ-khon-gia thì sẽ bắt đầu từ San-ti-ên và kết thúc ở Đức Giê-su. Tuy nhiên, khi đếm lại thì ta thấy phần thứ ba chỉ có mười ba đời. Theo Thánh Giê-rô-ni-mô, Giơ-khon-gia ở phần thứ hai và Giơ-khon-gia ở phần thứ ba là hai người khác nhau.
Lý giải sự khác nhau về gia phả Chúa Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Lu-ca
Xem chú giải Tin Mừng Lu-ca chương 3, câu 23.
Câu 18. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống – Helvidius (340-390) (tác giả của một tác phẩm viết trước năm 383 đặt vấn đề nghi ngờ sự đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a) đã dựa vào chi tiết này để lập luận là sau đó, có thể họ sẽ chung sống và ăn ở với nhau như các cặp vợ chồng khác. Thánh Giê-rô-ni-mô đã trả lời như sau:
Trong Thánh Kinh, những từ kiểu như “trước khi”, “cho đến khi” đặt trước một sự việc không biểu lộ những gì diễn ra sau đó hay có ý nói rằng sự việc đó chắc chắn sẽ xảy ra ở một thời điểm không xác định trong tương lai, nhưng chỉ đơn thuần khẳng định về điều gì đó được hoặc không được thực hiện. Chẳng hạn, trong câu “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi [cho đến khi] bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con” (Tv 110,1) thì không có nghĩa là sau khi mọi kẻ thù được đặt dưới chân Đức Ki-tô, Người không còn ngự bên hữu Chúa Cha nữa. Trong ngôn ngữ đời thường cũng vậy, khi nói một người nào đó qua đời trước tuổi 30, chúng ta không có ý rằng anh ta sẽ đạt đến tuổi 30 sau đó. Hay khi nói ai đó đã chết trước khi kịp đền tội, điều đó cũng không có nghĩa là người ấy sẽ đền tội sau khi qua đời. Tương tự như thế, trong câu này, Thánh Kinh chỉ muốn khẳng định rằng việc Đức Ma-ri-a thụ thai là nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần chứ không phải do hai ông bà ăn ở với nhau.
Câu 19. Thánh Giu-se, một người công chính, đã rất ngạc nhiên khi biết Đức Ma-ri-a mang thai dù hai ông bà chưa về chung sống. Nhưng thay vì tố giác bà, hay đơn giản hơn là đưa cho bà một chứng thư ly dị, ông đã định bỏ bà cách kín đáo. Chúng ta hãy học đức tính này ở Thánh Giu-se trong việc tôn trọng danh dự của người khác. Đừng bao giờ giải trí bằng những suy nghĩ gây tổn hại hay vội vã nghi ngờ về phẩm giá của một người nào đó dù trong mọi hoàn cảnh.
Câu 23. Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” – Nguyên văn trong Sách ngôn sứ I-sai-a: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en. (Is 7,14)
Một số người Do-thái phản đối chi tiết này vì cho rằng từ “alma” trong Sách ngôn sứ I-sai-a có nghĩa là một thiếu nữ chứ không phải trinh nữ. Đó cũng là một đề tài tranh luận được đưa ra trong cuốn Đối thoại với Trypho của Thánh Giustinô Tử đạo (Đối thoại với Trypho là tác phẩm kể về các cuộc đối thoại thần học giữa Thánh Giustinô và một nhân vật tên Trypho nhằm khẳng định Đức Giê-su chính là Đấng Mê-si-a. Nhân vật Trypho được cho là thầy ráp-bi Do-thái tên Tarfon sống ở giai đoạn 70-135).
Thánh Giê-rô-ni-mô khẳng định rằng trong Kinh Thánh, từ “alma” luôn luôn được dùng để nói về một người trinh nữ. Hơn nữa, câu trong Sách ngôn sứ I-sai-a kể trên đang nói về dấu lạ mà Thiên Chúa hứa làm cho vua A-khát, vậy nếu dấu đó chỉ là việc một thiếu nữ không trinh nguyên sinh hạ con trai thì đâu có gì kỳ lạ.
Ngoài ra, cũng sẽ có người thắc mắc rằng trong các sách Tin Mừng, không có chi tiết nào cho thấy Chúa Giê-su được đặt tên là Em-ma-nu-en. Nhưng hãy lưu ý rằng trong cách diễn đạt của người Hy-lạp, một danh xưng được trao cho chính điều mà nó ngụ ý, và điều ngụ ý ở đây là: Chúa Giê-su sẽ là một Em-ma-nu-en thực sự, tức là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, Thiên Chúa thật và người thật. Hơn nữa, lời sứ thần Gáp-ri-en là “người ta sẽ gọi”, tức là nói về cách người ta nhìn nhận, ca tụng Đức Giê-su chứ không phải nói về tên gọi. Nó cũng giống như các tên gọi khác mà người ta dành cho Ngài như Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian,…
Câu 25. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai – Xem chú giải câu 18 bên trên.