Dẫn nhập

Thần học từng là một bộ môn nghiên cứu tại nhà từ cuối thế kỷ XII, khi các sinh viên và học giả bắt đầu tổ chức thành các hội nhóm có tính cách đoàn thể, hay còn gọi là các trường đại học, trong các thị trấn và thành phố như Bologna, Paris và Oxford. Khi bắt đầu chiếm lấy vị trí của các trường thuộc tu viện và nhà thờ chính tòa, các đại học này thường bao gồm một vài nhóm ngành hay phân khoa của các học giả (các bậc thầy / tiến sĩ), trong đó, có khoa thần học. Tới năm 1250, trong các đại học ở Paris, người ta lập ra các khoa nghệ thuật (bao gồm cả triết học và khoa học sơ khai), luật khoa, y khoa và khoa thần học; nhờ các phân khoa này mà các trường đại học thời bấy giờ đã trở nên nổi tiếng.

Vào thế kỷ XVI, khi Thánh Inhaxiô nhà Loyola phác họa tầm nhìn về giáo dục cho các trường đại học thuộc về hội dòng mới của mình, ngài đã dựa trên những gì kinh nghiệm được trong các nghiên cứu của bản thân, cách đặc biệt là những nghiên cứu thực hiện tại Paris. Thánh nhân đã đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thần học với tuyên bố rằng “trong các đại học của Hiệp hội, nó phải được nhấn mạnh cách chủ yếu” (Hiến pháp số 446). Đối với Thánh Inhaxiô, thần học là một bộ môn tích hợp, thứ mà Michael Buckley diễn tả như một “sự khôn ngoan có cấu trúc”.i Trong các trường của hội dòng, việc định hướng mô thức trong thần học (trái với định hướng tôn giáo) bắt đầu được tiến hành cho các sinh viên ở độ tuổi 17. Thậm chí, nếu việc nghiên cứu thần học thường bị giới hạn cho những người đang theo đuổi ơn gọi linh mục, thì vị trí quan trọng của thần học trong chương trình giảng dạy của Dòng Tên đã ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng trong các trường đại học của hội dòng.

Các trường đại học này đã cấu thành một trong những hệ thống giáo dục đầu tiên trong lịch sử.ii Tuy nhiên, chúng vẫn tuân theo hình mẫu đại học thời trung cổ với sự điều chỉnh không đáng kể, thứ về cơ bản, vẫn được giữ nguyên tại các trường đại học châu Âu cho tới ngày nay. Trong các đại học này, thần học hiện diện như một phân khoa hay chuyên ngành; nó không thường xuyên được tích hợp vào chương trình giảng dạy chung.

Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, nơi hoàn toàn khác biệt, mỗi trường đại học được phân chia thành [hai bộ phận] tốt nghiệp và chưa tốt nghiệp. Hầu hết các đại học ở cấp bang đều không có khoa thần học, hay như nó thường được gọi, một khoa dành cho các nghiên cứu về tôn giáo, mặc dù tình trạng này đang được thay đổi ngày nay. Các trường đại học thuộc Tư nhân và Giáo Hội thường cung cấp các khóa học về nghiên cứu tôn giáo hay thần học dưới hình thức bắt buộc hoặc không bắt buộc.

Trong những năm ngay trước Cđ. Vaticanô II, chương trình đào tạo thần học Công Giáo tại Hoa Kỳ có sự thay đổi đột ngột. Trước Công đồng, phần lớn việc nghiên cứu thần học chỉ diễn ra trong các chủng viện. Sinh viên trong các trường đại học Công Giáo chỉ thường được đào tạo về tôn giáo chứ không học thần học: “Cho đến thập niên 1950, thậm chí hầu hết các trường đại học Công Giáo đều không cung cấp các khóa thần học như một môn học. Các trường này là những cơ quan nghệ thuật có sự tự do, nơi chương trình giảng dạy đặt trọng tâm vào triết học chứ không phải thần học. Hầu hết trong số đó đều cung cấp các khóa học về tôn giáo, nhưng thường là tôn giáo xét dưới một bản tính biện minh, và trong nhiều trường hợp không được tính vào số lượng tín chỉ. Người hướng dẫn các khóa học này cho sinh viên rất thường xuyên là những người không nằm trong thành phần khoa hàn lâm và không có bằng cấp học thuật mà nhà trường yêu cầu. Mục tiêu của các chương trình này là truyền tải dữ liệu của đức tin Công Giáo một cách không chút nghi ngờ.”iii

Sau Cđ. Vaticanô II, tất cả những điều này đã bắt đầu thay đổi. Với việc ngày càng có nhiều giáo dân đạt được bằng cấp về thần học, vào năm 1964, Hiệp hội Thần học Công Giáo Hoa Kỳ, vốn ban đầu là một tổ chức của các giáo sư chủng viện, đã thay đổi hiến pháp của họ nhằm thu nạp các thành viên là giáo dân. Các trường đại học Công Giáo bắt đầu phát triển các khoa thần học có tính chuyên môn ở mức độ cao. Các thành viên trong khoa, mà giờ đây có cả linh mục, tu sĩ và giáo dân, đã ngày càng tích cực trong việc nghiên cứu, xuất bản và tham gia vào các hiệp hội thần học chuyên nghiệp, nơi nghiên cứu thần học đã chuyển từ các chủng viện sang các trường đại học và sau đại học.

Tuy nhiên, việc không ngừng chuyên môn hóa trong các trường đại học Công Giáo nói chung, cũng như trong các khoa thần học của họ nói riêng, là một mớ may rủi lẫn lộn. Các cơ quan giáo dục Công Giáo rất thường xuyên chỉ đơn giản là bắt chước các tiêu chuẩn và giá trị mang tính hàn lâm của nền giáo dục thế tục bậc cao ở Hoa Kỳ. Nhiều cơ quan trong số đó rơi vào tình trạng chệch khỏi trọng tâm và căn tính tôn giáo của họ. Trong nỗ lực mang tính mô tả hơn là tín lý, nhiều khoa thần học đã tự biến mình thành khoa nghiên cứu tôn giáo. Họ trở nên đa nguyên hơn nhiều về phương pháp tiếp cận và các phân khoa.

Trong các yêu cầu về thần học/nghiên cứu tôn giáo ở các trường đại học Công Giáo Hoa Kỳ ngày nay, tính đa nguyên đó xuất hiện đặc biệt rõ ràng. Yêu cầu thông thường là hai khóa học.iv Một số bao gồm một khóa khởi đầu hay dẫn nhập có tính cách bắt buộc. Nhưng thông thường, yêu cầu này có thể được đáp ứng bằng hai khóa học [thay thế] bất kỳ. Với chỉ hai hoặc ba khóa, mà chủ đề thường là tạp nham, rất dễ có chuyện một sinh viên ngày nay học xong chương trình tại một trường đại học Công Giáo mà không phải đọc một cuốn Tin Mừng, không phải nghiên cứu Kitô học, Giáo Hội học, hay không học qua một khóa về đạo đức học/thần học luân lý Kitô Giáo. Với sự nhấn mạnh yếu ớt vào lịch sử Giáo Hội, các sinh viên thường không mấy quen thuộc với truyền thống Kitô Giáo; họ không đọc các tác phẩm của Thánh Augustinô, Thánh Tôma, Luther, hay ĐHY Newman. Họ có rất ít sự thân quen với các truyền thống và tôn giáo khác với những gì đã có của riêng họ. Và vì không được cung cấp một sự tiếp nối có cấu trúc, các sinh viên không mấy khi tiếp cận được các tài liệu có tính hệ thống dẫn vào nghiên cứu thần học, cũng như hiếm có cơ hội nhận được cái nhìn tổng quan về những gì mà thần học chứa đựng trong nó.

Chính vì thế, cuốn sách này đã ra đời. Được biên soạn để sử dụng như một tài liệu bổ sung, nó cung cấp cho người đọc một lời dẫn nhập vào nghiên cứu thần học cùng với các phương pháp nghiên cứu đa dạng của nó. Không giống như cách tiếp cận theo chủ đề của các sách giáo khoa cổ (de Deo Uno, de Deo Trino,…), cách tiếp cận của nó thuộc về phương pháp luận. Thần học ngày nay đã trở thành thứ liên tục bị chia nhỏ thành một lượng lớn các bộ môn và chuyên ngành. Tuy nhiên, trong khi giới thiệu đa dạng các lĩnh vực của nghiên cứu thần học, nhiều chủ đề truyền thống sẽ được đưa ra như các ví dụ.

Cuốn sách này được chia làm ba phần. Phần thứ nhất giải quyết các vấn đề cơ bản. Chương 1 khảo cứu bản tính của thần học vừa xét như một khoa học, với tác vụ phê bình và các chuyên ngành khác nhau của nó, vừa xét như một công việc của Giáo Hội. Chương này cũng suy xét những căng thẳng đôi khi nảy sinh giữa các thần học gia với các Đức Giám mục do hai phần bản tính của thần học. Trong chương 2, Daniel L. Smith-Christopher sẽ trình bày về lịch sử của Ítraen, cùng với các sách trong Kinh Thánh Do Thái. Trong chương 3, Jeffrey Siker phác họa về sự phát triển của Thư quy Tân Ước, các phương pháp phê bình Kinh Thánh, cũng như các khía cạnh phân biệt của các sách Tân Ước. Trong chương 4, Herbert J. Ryan đưa ra cái nhìn tổng quan về lịch sử Giáo Hội.

Phần II chứa đựng phần lớn các vấn đề hệ thống. Trong chương 5, John R. Connolly khảo cứu Đức tin Kitô Giáo, trái ngược với hình mẫu trí tuệ về Đức tin của một cách tiếp cận nhân vị; trong khi thảo luận về Đức tin xét như hành vi và xét như nội dung, tác giả giới thiệu các chủ đề về Mặc khải, Kitô học, Giáo Hội và các biểu tượng của Đức tin. Trong chương 6, Mary M. Garascia nghiên cứu tỉ mỉ một vài vấn đề trong nhân học thần học, con người xét như hình ảnh của Thiên Chúa, như tội nhân và người được cứu độ, như một tự ngã trước Thiên Chúa, và như một hữu thể xã hội. Trong chương 8, Michael Downey phát triển một quan điểm về tính bí tích nhấn mạnh tới những điều ngụ ý trong các bí tích cho đời sống người Kitô hữu.

Phần III nghiên cứu một số vấn đề đương đại trong đời sống Giáo Hội. Trong chương 9, Mary Milligan giới thiệu khái niệm về linh đạo và nghiên cứu tỉ mỉ một số linh đạo khác nhau cũng như các cá nhân minh họa cho các linh đạo đó. Trong chương 10, Marie Anne Mayesky thảo luận về sự ảnh hưởng của Cđ. Vaticanô II lên thần học Công Giáo Rôma và tập trung vào hai vấn đề trong Giáo Hội hậu công đồng, phong trào Đại kết và chủ nghĩa nữ quyền. Sau cùng, trong chương 11, Christopher Chapple chuyển từ lời kêu gọi của Cđ. Vaticanô II về việc đối thoại và cộng tác với tín đồ của các tôn giáo khác, tới một sự trình bày sơ lược về các tôn giáo chính bên ngoài thế giới Tây phương.

Mặc dù cuốn sách này được viết từ một quan điểm của Giáo Hội Công Giáo Rôma, tuy nhiên, cách tiếp cận của nó được xây dựng trên tinh thần đại kết. Nó cũng suy tư về chủ nghĩa đa nguyên trong thần học đương đại dưới nhiều quan điểm khác từ những người cộng tác. Tính đa dạng đó cần được tôn trọng. Các cộng tác viên đã cố gắng, cho dù không phải lúc nào cũng thành công, nhằm giúp cho ngôn ngữ lịch sử của các đoạn văn trở nên bao hàm hơn. Các thay đổi đã giới thiệu được đặt trong dấu ngoặc. Các văn kiện được trích dẫn từ Cđ. Vaticanô II sẽ được viết tắt bằng những chữ cái Latinh đầu tiên trong tên gọi của chúng; một danh sách các ký hiệu viết tắt có thể được tìm thấy sau phần mục lục.

Cuốn sách này diễn tả một nỗ lực chung của các thành viên trong khoa thần học tại Đại học Loyola Marymount. Các phần nội dung trong sách được giới thiệu như một lớp học thuộc nhà trường vào mùa xuân năm 1991. Tất cả thành viên trong khoa của chúng tôi, những người được hưởng lợi từ kinh nghiệm đó, đều biết ơn những người đã tham gia lớp học và đóng góp ý kiến ​​và đề xuất của họ. Bây giờ, nó được giới thiệu như một cuốn sách với hy vọng dẫn dắt những người khác đến lĩnh vực nghiên cứu phong phú và phức tạp của thần học.

Thomas P. Rausch, S.J.


Chú thích

i X. Michael J. Buckley, “In Hunc Potissimum … : Ignatius’ Understanding of the Jesuit University,” các bài đọc sử dụng tại Ignatian Higher Education 1 (Spring 1989) 24.

ii X. George E. Ganss, The Constitutions of the Society of Jesus (St. Louis: Institute of Jesuit Sources, 1970) 174.

iii Robert J. Wister, “The Teaching of Theology 1950-90: the American Catholic Experience,” America 162 (February 3, 1990) 92; x. David J. O’Brien, “The Church and Catholic Higher Education,” Horizons 17 (1990) 14.

iv Chẳng hạn, trong số 28 trường đại học thuộc Dòng Tên tại Hoa Kỳ vào năm 1990, có 2 trường yêu cầu bốn khóa học, 10 trường yêu cầu ba khóa, 15 trường yêu cầu hai, và 1 trường chỉ yêu cầu một.

Hiến Chế Về Phụng Vụ Thánh - Sacrosanctum Concilium - 04/12/1963Bài 2. Lịch sử Phụng vụLịch Phụng Vụ Công Giáo Tháng 02/2020Bảy Sự Thương Khó Đức BàBài 1. Loài người tìm kiếm Thiên ChúaChương 2. Nghĩ khiêm tốn về mìnhChủ đềNhập đềChương 1. Thần học và phương pháp