Chương 1. Tư tưởng triết học trước khi có Triết học theo nghĩa chặt
1. Dẫn nhập
Suy đoán triết học, cách chính xác, vì là thành quả cao nhất có thể đạt tới của lý trí, đã không được biết đến bởi tất cả các chủng tộc thời nguyên thủy. Quả thực, ngay cả phần lớn những nền văn minh cổ đại cũng hoặc không có triết học, hoặc đã thất bại trong việc khám phá ra bản tính thực sự và đặc điểm phân biệt của nó. Bất luận thế nào, triết học cũng chỉ xuất hiện ở thời điểm rất muộn, khoảng thế kỷ VIII và đặc biệt là thế kỷ VI TCN, rồi sau đó, tìm ra chính lộ dẫn tới sự thật nhờ vào thành tựu mà có lẽ phải xếp vào loại phi thường nếu chúng ta xét đến vô số những con đường sai lầm được vạch ra bởi các triết gia và các trường phái triết học.
Tuy nhiên, một số trong những sự thật sơ đẳng nhất mà triết học bàn bạc đã được biết đến rất lâu trước khi triết học ra đời, và điều quan trọng hơn là những sự thật này được tìm thấy trong những dạng thức ít nhiều thô sơ và sai lầm có phần nghiêm trọng nơi những người cổ đại, ngay cả trong những thời kỳ cổ xưa nhất. Mặc dù vậy, chúng đã không được học lấy từ bất cứ triết gia nào, nhưng phát xuất một phần từ những bài tập hoàn toàn mang tính bản năng và tự phát của lý trí mà chúng ta gọi là lẽ thường, và trên hết là từ truyền thống nguyên thủy.
2. Truyền thống nguyên thủy
Những chứng từ khả tín của lịch sử kết hợp với những kết luận của thần học1 giúp chúng ta chứng minh sự tồn tại của một truyền thống nguyên thủy chung cho các chủng tộc khác nhau và quy về nguồn gốc loài người. Và thậm chí, nếu thiếu đi bất cứ nguồn thông tin xác thực nào, thì một phỏng đoán cho rằng con người đầu tiên đã nhận được tri thức cùng lúc với sự hiện hữu từ Thiên Chúa, và rằng nhờ giáo dục, anh ta có thể hoàn thiện phần việc còn lại sau khi được dựng nên, cũng là điều hợp lý.
Nhưng liệu tri thức này, cùng với tôn giáo nguyên thủy mà nó đã được hiệp nhất, có thể được loài người lưu truyền một cách nguyên vẹn hay không? Một mặt, chúng ta có những chân lý về những điều cao siêu tột đỉnh được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ kia, nhưng mặt khác, trí thông minh nhân loại cũng đã sớm bị chi phối bởi giác quan và trí tưởng tượng. Một sự mất cân đối đến mức cực đoan hẳn đã phá hoại truyền thống được tiếp nhận từ thuở ban đầu, khi dần dần từng chút một, sự lãng quên tích tụ lại trên nó, sai lầm làm ô uế nó, và nó trở thành con mồi cho những thối nát của đa thần giáo và các hình thức tôn giáo biến chất hơn (thờ vật linh, thờ vật tổ, thờ ngẫu tượng, ma thuật, v.v.). Tuy nhiên, bất chấp những biến đổi mà nó trải qua, truyền thống nguyên thủy đã bảo tồn cho nhân loại suốt nhiều thời đại một khoản ký gửi hao hụt dần của những chân lý nền tảng. Khoản ký gửi này hàm chứa trong nó nhiều quan niệm triết học—có nghĩa là, những quan niệm liên quan đến những vấn đề cao siêu nhất thuộc phạm vi của lý trí. Nhưng vì chỉ được đưa ra giảng dạy bởi một truyền thống tôn giáo chứng thực cho những giáo huấn mang tính bản năng của lẽ thường, nên chúng cũng chỉ được nhận biết theo kiểu tiền triết học và tồn tại trong tình trạng tiền triết học mà thôi.
3. Người Semite và người Ai-cập
Quả không có gì ngạc nhiên khi tất cả những người sống trong thời kỳ sơ khai2 của lịch sử đều không biết gì về suy đoán triết học. Nhưng điều đáng kinh ngạc là ngay cả một số nền văn minh từng phát triển rực rỡ cũng không hề có lĩnh vực này—lấy ví dụ, người Semite, và thậm chí ngay cả người Ai-cập. Bất chấp nền văn hóa có tính khoa học ở trình độ cao được đạo diễn bởi giới quý tộc tinh hoa, nhưng có vẻ những quan niệm triết học duy nhất mà người Ai-cập và Can-đê sở hữu lại chỉ là những ý niệm hết sức bình thường được hàm chứa trong tôn giáo của họ, liên quan đến Thượng Đế, linh hồn và trạng thái của linh hồn con người sau khi chết, cùng với những mệnh lệnh luân lý. Những chân lý như vậy (tương tự như trường hợp của mọi chủng tộc khác) sẽ càng trở nên trong sáng và nguyên tuyền hơn nếu chúng ta càng trở về xa hơn với nguồn gốc ban đầu của chúng. Và giống như những tin tưởng khoa học, chúng chưa từng được coi là chủ đề của nghiên cứu và suy đoán thuần lý, trái lại, chỉ được chấp nhận cách đơn giản như một phần của truyền thống thiêng liêng. Tôn giáo đã thay thế triết học, và từ tôn giáo, các chủng tộc này đã tiếp nhận những chân lý triết học nhất định, dù triết học thì không có. Về vấn đề này, người Do-thái cũng không hơn gì so với các đồng sự Semite. Khinh miệt khôn ngoan phàm nhân và những thành tựu của lý trí thuần túy, và quả thực, vì không có năng khiếu trong những khảo cứu thuộc loại này, họ đã không sản sinh ra bất cứ triết gia nào (ít nhất là trước Philo, người cùng thời với Chúa Giêsu Kitô), nhưng chỉ có các ngôn sứ và Lề Luật.
4. Người Ấn-Âu
Trong khi đó, nơi tất cả những nền văn minh Ấn-Âu vĩ đại, người ta đã thấy có một sự thúc đẩy nào đó, dù ở nhiều dạng thức khác nhau, về phía suy đoán—thuần lý và triết học—theo nghĩa chặt. Nhưng chỉ tại Hy-lạp (và trên quy mô lớn ở Ấn Độ) mà sự thúc đẩy này mới thành công trong việc đạt tới một bộ môn khoa học được phân biệt với tôn giáo. Ngoài ra, ở những nơi khác, trong trường hợp này, một tôn giáo truyền thống đã không thay thế triết học, nhưng triết học, hay đúng hơn là khôn ngoan phàm nhân, đã thâm nhập vào tôn giáo và bị lẫn lộn với nó. Ở đó, nhà khôn ngoan đã đảm nhiệm một phận vụ thiêng liêng. Ông không phải là người đứng đầu một trường phái triết học nào cả, nhưng là nhà sáng lập của một giáo phái tôn giáo, nếu không muốn nói là một tôn giáo mới.
4.1. Người Ba Tư
Đối với những người Ba Tư, những người mà tôn giáo nguyên gốc của họ, dựa trên những văn bia cổ, hầu như là một loại tôn giáo độc thần, vào khoảng thế kỷ VIII hoặc VI TCN, Zoroaster (hay Zarathustra) đã lập lên Hỏa giáo (Mazdeism, hay Zoroastrianism), một loại tôn giáo coi lửa là tượng trưng cho Thiên Chúa. Đây là thành quả có sức ảnh hưởng mạnh mẽ của suy đoán trong nỗ lực nhằm đưa ra lời giải thích hợp lý cho nan đề mà con người đã phải đối diện ngay từ đầu, vấn đề sự dữ. Nó đã hệ thống hóa (và vô tình làm sai lệch) một số chân lý nền tảng nhất định vốn bắt nguồn từ truyền thống nguyên thủy. Do thất bại trong việc nhận biết Thiên Chúa là nguyên lý tối thượng duy nhất và là nguồn gốc của mỗi sự vật tồn tại, trong chừng mực chúng tham dự vào hiện hữu; và vì không hiểu rằng sự dữ chỉ đơn thuần là sự thiếu hụt của hữu thể khi không có hiện hữu tích cực, vì thế, không có thụ tạo nào là dữ tự bản tính; nên Zoroaster đã dừng lại ở thuyết nhị nguyên và giảng dạy về sự hiện hữu của hai nguyên lý vừa vô tạo vừa vĩnh cửu là nguyên lý Sự Thiện (Ormuzd) và nguyên lý Sự Dữ (Ahriman). Ông cho rằng hai nguyên lý này cùng chia sẻ sự thống trị vũ trụ với nhau và tham gia đồng thời vào một trận chiến liên lỉ không có hồi kết. Trong chừng mực Ahriman được đồng nhất với thiên thần nổi loạn của truyền thống nguyên thủy, Hỏa giáo có xu hướng biến ma quỷ thành một vị thần đối trọng với Thiên Chúa.
[Trong phần tiếp theo, Jacques Maritain đã đưa ra bản trình bày ngắn gọn về các học thuyết và xu hướng triết học ẩn chứa trong các tôn giáo lớn ở Đông phương như Đạo Bà La Môn, Phật Giáo, Lão Giáo và Nho Giáo dựa trên những dữ kiện mà ông nhìn nhận là “vẫn chưa đạt tới sự chắc chắn” và chỉ có thể cung cấp “một lời giải thích có khả năng đúng nhất về niềm tin của họ”. Trong bản tóm lược tổng thể về các tôn giáo lớn của người Ấn-Âu (Arya), ông cho rằng: “chúng ta không chỉ bắt buộc phải cô lập các khía cạnh trí tuệ của các tôn giáo mà người học triết quan tâm bằng một quá trình trừu tượng hóa, nhưng còn phải đơn giản hóa đáng kể và giảm thành một sự phân loại nhân tạo đối với những học thuyết có độ phức tạp cao và dao động mà đôi khi, tính không thống nhất của chúng cũng đã làm nản lòng các sử gia. Bên cạnh đó, cũng cần phải nói thêm rằng những giải thích về tư tưởng Đông phương mà các học giả đưa ra phần lớn vẫn chỉ là phỏng đoán, cách đặc biệt trong chừng mực liên quan đến triết học, và trong nhiều trường hợp là vô cùng thiếu sót.” Nhằm tránh lạc đề vào lĩnh vực tôn giáo, con xin lược bớt phần này và tiếp tục với nội dung ngay sau đây.]
5. Người Hy-lạp - Những người được chọn của khoa lý luận
Trong thế giới cổ đại, thực sự chỉ riêng tại Hy-lạp mà khôn ngoan nhân loại mới tìm ra chính lộ, nhờ sự hòa hợp vinh phúc giữa các năng lực của linh hồn, cùng một nỗ lực dài hơi nhằm vươn tới trật tự và một bộ môn về tinh thần, mà lý trí nhân loại đã đạt tới sức mạnh đầy tràn và sự trưởng thành của nó. Do đó, chủng tộc Hy-lạp nhỏ bé đã xuất hiện giữa các đế chế cường thịnh ở Đông phương như người đàn ông được vây quanh bởi những đứa trẻ to xác, và thực sự, họ có thể được gọi là những người phát ngôn cho lý trí và lời con người, giống như cách dân tộc Do-thái được gọi là cơ quan ngôn luận của mặc khải và Lời Chúa.
Ngoài ra, cũng chỉ riêng ở Hy-lạp, chúng ta mới thấy triết học giành được quyền tự chủ và được phân biệt cách rõ ràng với tôn giáo. Ít nhất là trong thời đại tinh tuyền và huy hoàng nhất của nó, tư tưởng Hy-lạp đã nhận ra những giới hạn của riêng mình và sẵn lòng đưa ra một phạm vi được đóng khung chặt chẽ, phạm vi của nghiên cứu khoa học về những sự thật thuần lý; trong khi ngược lại, tôn giáo của họ, thứ đã bị suy thoái rất nhiều từ thời Homer, đã ngày càng trở nên hư hoại và tỏ ra không có khả năng trong việc đáp ứng các nhu cầu của trí tuệ con người. Đúng vậy, sẽ đến một lúc nào đó, khi người Hy-lạp lạm dụng triết học và lý trí trong sự kiêu căng, đã cố gắng nắm lấy những điều thuộc về Thiên Chúa bằng khôn ngoan phàm nhân, điều đã khiến họ bị phê bình một cách xác đáng bởi Thánh Phaolô: “đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hóa ra mê muội” (Rm 1,21) và “sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa” (1 Cr 3,19). Nhưng mặc dù được sinh ra từ tư tưởng con người, triết học của họ đã không bị nhiễm uế bởi những sai lầm và đối tượng duy nhất của nó vẫn là sự thật.
Chú thích
1 P. Lemonnyer, O.P. (Schmidt), La Révélation primitive et les données actuelles de la science. Paris, 1914.
2 Sơ khai đối với một nhánh cá biệt của nhân loại và trong chừng mực mà tri thức của chúng ta về quá khứ vẫn còn rộng mở, nhưng không phải là sơ khai theo nghĩa tuyệt đối. Đằng sau những gì mà chúng ta gọi là nhà nước nguyên thủy của các dân tộc đã biết, là một giai đoạn lịch sử dài của loài người mà chúng ta không hề có thông tin.