Tông hiến Sacrae Disciplinae Leges

Điều
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LUẬT CÔNG GIÁO

ĐÔI LỜI DẪN NHẬP VÀ CÁM ƠN

TÔNG HIẾN SACRAE DISCIPLINAE LEGES

LỜI TỰA

QUYỂN II (ĐIỀU 204-743)

DÂN THIÊN CHÚA

PHẦN I. CÁC KI-TÔ HỮU (ĐIỀU 204-329)

Đề mục 1. Nghĩa vụ và quyền lợi của mọi Ki-tô hữu (Điều 208-223)

Đề mục 2. Nghĩa vụ và quyền lợi của giáo dân (Điều 224-231)

Đề mục 3. Thừa tác viên có chức thánh hay giáo sĩ (Điều 232-293)

Chương 1. Việc đào tạo giáo sĩ (Điều 232-264)

Chương 2. Sự nhập tịch của các giáo sĩ (Điều 265-272)

Chương 3. Nghĩa vụ và quyền lợi của giáo sĩ (Điều 273-289)

Chương 4. Mất bậc giáo sĩ (Điều 290-293)

Đề mục 4. Hạt giám chức tòng nhân (Điều 294-297)

Đề mục 5. Các hiệp hội Ki-tô hữu (Điều 298-329)

Chương 1. Những quy tắc chung (Điều 298-311)

Chương 2. Các hiệp hội công của Ki-tô hữu (Điều 312-320)

Chương 3. Các hiệp hội tư của Ki-tô hữu (Điều 321-326)

Chương 4. Quy tắc riêng cho các hiệp hội giáo dân (Điều 327-329)

PHẦN II. CƠ CẤU PHẤM TRẬT CỦA GIÁO HỘI (ĐIỀU 330-572)

Thiên 1. Quyền tối thượng của Giáo Hội (Điều 330-367)

Chương 1. Đức Giáo Hoàng và Giám mục đoàn (Điều 330-341)

Tiết 1. Đức Giáo Hoàng Rô-ma (Điều 331-335)

Tiết 2. Giám mục đoàn (Điều 336-341)

Chương 2. Thượng hội đồng Giám mục (Điều 342-348)

Chương 3. Các Hồng y Giáo Hội Rô-ma (Điều 349-359)

Chương 4. Giáo triều Rô-ma (Điều 360-361)

Chương 5. Các đặc sứ của đức Giáo Hoàng (Điều 362-367)

Thiên 2. Các Giáo hội địa phương và các hợp đoàn Giáo hội địa phương (Điều 368-572)

Đề mục 1. Các Giáo hội địa phương và quyền bính (Điều 368-430)

Chương 1. Các Giáo hội địa phương (Điều 368-374)

Chương 2. Các Giám mục (Điều 375-411)

Tiết 1. Các Giám mục nói chung (Điều 375-380)

Tiết 2. Các Giám mục Giáo phận (Điều 381-402)

Tiết 3. Các Giám mục phó và Giám mục phụ tá (Điều 403-411)

Chương 3. Cản tòa và khuyết vị (Điều 412-430)

Tiết 1. Cản tòa (Điều 412-415)

Tiết 2. Khuyết vị (Điều 416-430)

Đề mục 2. Các hợp đoàn Giáo hội địa phương (Điều 431-459)

Chương 1. Các Giáo tỉnh và các Giáo miền (Điều 431-434)

Chương 2. Các vị trưởng Giáo tỉnh (Điều 435-438)

Chương 3. Các công đồng địa phương (Điều 439-446)

Chương 4. Các hội đồng Giám mục (Điều 447-459)

Đề mục 3. Tổ chức nội bộ của các Giáo hội địa phương (Điều 460-572)

Chương 1. Công nghị Giáo phận (Điều 460-468)

Chương 2. Toà Giám mục Giáo phận (Điều 469-494)

Tiết 1. Các tổng đại diện và các đại diện Giám mục (Điều 475-481)

Tiết 2. Chưởng ấn công chứng viên và văn khố (Điều 482-491)

Tiết 3. Hội đồng kinh tế và quản lý (Điều 492-494)

Chương 3. Hội đồng linh mục và ban tư vấn (Điều 495-502)

Chương 4. Các hội kinh sĩ (Điều 503-510)

Chương 5. Hội đồng mục vụ (Điều 511-514)

Chương 6. Các giáo xứ, các cha sở và các cha phó (Điều 515-552)

Chương 7. Các cha quản hạt (Điều 553-555)

Chương 8. Các cha quản nhiệm nhà thờ và các cha tuyên úy (Điều 556-572)

Tiết 1. Các cha quản nhiệm nhà thờ (Điều 556-563)

Tiết 2. Các cha tuyên úy (Điều 564-572)

PHẦN III. CÁC TU HỘI THÁNH HIẾN VÀ CÁC TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ (ĐIỀU 573-746)

Thiên 1. Các tu hội thánh hiến (Điều 573-730)

Đề mục 1. Quy tắc chung cho tất cả các tu hội thánh hiến (Điều 573-606)

Đề mục 2. Các hội dòng (Điều 607-709)

Chương 1. Các nhà dòng. Việc thành lập và giải thể các nhà dòng (Điều 608-616)

Chương 2. Việc lãnh đạo hội dòng (Điều 617-640)

Tiết 1. Các bề trên và ban cố vấn (Điều 617-630)

Tiết 2. Các công nghị (Điều 631-633)

Tiết 3. Tài sản vật chất và việc quản trị tài sản (Điều 634-640)

Chương 3. Việc thâu nhận ứng sinh và đào tạo các tu sĩ (Điều 641-661)

Tiết 1. Việc thâu nhận vào tập viện (Điều 641-645)

Tiết 2. Tập viện và việc đào tạo tập sinh (Điều 646-653)

Tiết 3. Việc tuyên khấn (Điều 654-658)

Tiết 4. Việc đào tạo các tu sĩ (Điều 659-661)

Chương 4. Nghĩa vụ và quyền lợi của các tu hội và các thành viên (Điều 662-672)

Chương 5. Việc tông đồ của các tu hội (Điều 673-683)

Chương 6. Các thành viên rời bỏ tu hội (Điều 684-704)

Tiết 1. Việc chuyển sang tu hội khác (Điều 684-685)

Tiết 2. Việc rời bở tu hội (Điều 686-693)

Tiết 3. Việc sa thải các thành viên (Điều 694-704)

Chương 7. Tu sĩ được thăng chức Giám mục (Điều 705-707)

Chương 8. Hội đồng các bề trên cấp cao (Điều 708-709)

Đề mục 3. Các tu hội đời (Điều 710-730)

Thiên 2. Các tu đoàn tông đồ (Điều 731-746)

QUYỂN IV (ĐIỀU 834-1253)

NHIỆM VỤ THÁNH HÓA CỦA GIÁO HỘI

PHẦN I. CÁC BÍ TÍCH (ĐIỀU 840-1165)

Đề mục 1. Bí tích Rửa Tội (Điều 849-878)

Chương 1. Сử hành Bí tích Rửa Tội (Điều 850-860)

Chương 2. Thừa tác viên Bí tích Rửa Tội (Điều 861-863)

Chương 3. Những người lãnh nhận Bí tích Rửa Tội (Điều 864-871)

Chương 4. Người đỡ đầu (Điều 872-874)

Chương 5. Chứng minh và ghi sổ ban Bí tích Rửa Tội (Điều 875-878)

Đề mục 2. Bí tích Thêm Sức (Điều 879-896)

Chương 1. Cử hành Bí tích Thêm Sức (Điều 880-881)

Chương 2. Thừa tác viên Bí tích Thêm Sức (Điều 882-888)

Chương 3. Những người lãnh nhận Bí tích Thêm Sức (Điều 889-891)

Chương 4. Người đỡ đầu (Điều 892-893)

Chương 5. Chứng minh và ghi sổ ban Bí tích Thêm Sức (Điều 894-896)

Đề mục 3. Bí tích Thánh Thể (Điều 897-958)

Chương 1. Cử hành Bí tích Thánh Thể (Điều 899-933)

Tiết 1. Thừa tác viên Bí tích Thánh Thể (Điều 900-911)

Tiết 2. Tham dự Bí tích Thánh Thể (Điều 912-923)

Tiết 3. Nghi lễ và nghi thức cử hành Bí tích Thánh Thể (Điều 924-930)

Tiết 4. Thời gian và nơi cử hành Bí tích Thánh Thể (Điều 931-933)

Chương 2. Lưu giữ và tôn thờ Thánh Thể (Điều 934-944)

Chương 3. Bổng lễ để cử hành Thánh lễ (Điều 945-958)

Đề mục 4. Bí tích Sám Hối (Điều 959-997)

Chương 1. Cử hành Bí tích Sám Hối (Điều 960-964)

Chương 2. Thừa tác viên Bí tích Sám Hối (Điều 965-986)

Chương 3. Hối nhân (Điều 987-991)

Chương 4. Ân xá (Điều 992-997)

Đề mục 5. Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (Điều 998-1007)

Chương 1. Cử hành Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (Điều 999-1002)

Chương 2. Thừa tác viên Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (Điều 1003)

Chương 3. Những người lãnh nhận Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (Điều 1004-1007)

Đề mục 6. Bí tích Truyền Chức Thánh (Điều 1008-1054)

Chương 1. Việc cử hành và thừa tác viên Lễ truyền chức (Điều 1010-1023)

Chương 2. Những người nhận lãnh chức thánh (Điều 1024-1052)

Tiết 1. Những điều kiện buộc người nhận lãnh chức thánh phải có (Điều 1026-1032)

Tiết 2. Những điều kiện cần thiết để nhận lãnh chức thánh (Điều 1033-1039)

Tiết 3. Những điều bất hợp luật và các ngăn trở khác (Điều 1040-1049)

Tiết 4. Các văn bản cần thiết và việc điều tra (Điều 1050-1052)

Chương 3 việc ghi sổ và chứng thư truyền chức (Điều 1053-1054)

Đề mục 7. Bí tích Hôn Nhân (Điều 1055-1165)

Chương 1. Mục vụ hôn nhân và những việc phải làm trước khi hôn nhân được cử hành (Điều 1063-1072)

Chương 2. Ngăn trở tiêu hôn nói chung (Điều 1073-1082)

Chương 3. Ngăn trở tiêu hôn nói riêng (Điều 1083-1094)

Chương 4. Sự ưng thuận hôn nhân (Điều 1095-1107)

Chương 5. Nghi thức cử hành hôn nhân (Điều 1108-1123)

Chương 6. Hôn nhân hỗn hợp (Điều 1124-1129)

Chương 7. Cử hành hôn nhân cách kín đáo (Điều 1130-1133)

Chương 8. Hiệu quả hôn nhân (Điều 1134-1140)

Chương 9. Sự ly thân giữa vợ chồng (Điều 1141-1155)

Tiết 1. Tháo gỡ dây hôn nhân (Điều 1141-1150)

Tiết 2. Ly thân mà dây hôn nhân vẫn còn (Điều 1151-1155)

Chương 10. Thành sự hóa hôn nhân (Điều 1156-1165)

Tiết 1. Thành sự hóa đơn thuân (Điều 1156-1160)

Tiết 2. Điều trị tại căn (Điều 1161-1165)

PHẦN II. CÁC VIỆC PHỤNG TỰ KHÁC (ĐIỀU 1166-1204)

Đề mục 1. Các Á bí tích (Điều 1166-1172)

Đề mục 2. Phụng vụ các giờ kinh (Điều 1173-1175)

Đề mục 3. An táng theo nghi thức Giáo Hội (Điều 1176-1185)

Chương 1. Cử hành nghi thức an táng (Điều 1177-1182)

Chương 2. Những người được hoặc không được an táng theo nghi thức Giáo Hội (Điều 1183-1185)

Đề mục 4. Tôn kính các thánh, ảnh tượng thánh và các thánh tích (Điều 1186-1190)

Đề mục 5. Lời khấn và lời thề (Điều 1191-1204)

Chương 1. Lời khấn (Điều 1191-1198)

Chương 2. Lời thề (Điều 1199-1204)

PHẦN III. NƠI THÁNH VÀ THỜI GIAN THÁNH (ĐIỀU 1205-1253)

Đề mục 1. Nơi thánh (Điều 1205-1243)

Chương 1. Nhà thờ (Điều 1214-1222)

Chương 2. Nhà nguyện và nhà nguyện tư (Điều 1223-1229)

Chương 3. Đền thánh (Điều 1230-1234)

Chương 4. Bàn thờ (Điều 1235-1239)

Chương 5. Nghĩa trang (Điều 1240-1243)

Đề mục 2. Thời gian thánh (Điều 1244-1253)

Chương 1. Các ngày lễ (Điều 1246-1248)

Chương 2. Các ngày sám hối (Điều 1249-1253)

QUYỂN VII (ĐIỀU 1400-1752)

TỐ TỤNG

PHẦN I. XỬ ÁN NÓI CHUNG (ĐIỀU 1400-1500)

Đề mục 1. Tòa án có thẩm quyền (Điều 1404-1416)

Đề mục 2 các cấp và các loại tòa án khác nhau (Điều 1417-1445)

Chương 1. Tòa án cấp một (Điều 1419-1437)

Tiết 1. Thẩm phán (Điều 1419-1427)

Tiết 2. Dự thẩm và phúc trình viên (Điều 1428-1429)

Tiết 3. Công tố viên bảo hệ viên và công chứng viên (Điều 1430-1437)

Chương 2. Tòa án cấp hai (Điều 1438-1441)

Chương 3. Các tòa án tông tòa (Điều 1442-1445)

Đề mục 3. Quy luật phải giữ tại các tòa án (Điều 1446-1475)

Chương 1. Nhiệm vụ của thẩm phán và của viên chức tòa án (Điều 1446-1457)

Chương 2. Trình tự của việc xét xử (Điều 1458-1464)

Chương 3. Các hạn kỳ và triển hạn (Điều 1465-1467)

Chương 4. Nơi xét xử (Điều 1468-1469)

Chương 5. Những người được nhận vào phòng xử. Cách thức soạn thảo và lưu trữ án từ (Điều 1470-1475)

Đề mục 4. Các bên trong vụ án (Điều 1476-1490)

Chương 1. Nguyên cáo và bị cáo (Điều 1476-1480)

Chương 2. Những người đại diện và những luật sư (Điều 1481-1490)

Đề mục 5. Tố quyền và khước biện (Điều 1491-1500)

Chương 1. Tố quyền và khước biện nói chung (Điều 1491-1495)

Chương 2. Tố quyền và khước biện nói riêng (Điều 1496-1500)

PHẦN II. TỐ TỤNG HỘ SỰ (ĐIỀU 1501-1670)

Thiên 1. Tố tụng hộ sự thông thường (Điều 1501-1655)

Đề mục 1. Khởi tố vụ án (Điều 1501-1512)

Chương 1. Đơn khởi tố (Điều 1501-1506)

Chương 2. Triệu tập và thông báo các án từ (Điều 1507-1512)

Đề mục 2. Đối tụng (Điều 1513-1516)

Đề mục 3. Tiến hành vụ kiện (Điều 1517-1525)

Đề mục 4. Chứng cớ (Điều 1526-1586)

Chương 1. Lời khai của các bên (Điều 1530-1538)

Chương 2. Chứng minh bằng tài liệu (Điều 1539-1546)

Tiết 1. Bản chất và giá trị chứng minh của các tài liệu (Điều 1540-1543)

Tiết 2. Xuất trình tài liệu (Điều 1544-1546)

Chương 3. Các nhân chứng và việc làm chứng (Điều 1547-1573)

Tiết 1. Những người có thể làm chứng (Điều 1549-1550)

Tiết 2. Chấp nhận và loại trừ nhân chứng (Điều 1551-1557)

Tiết 3. Thẩm vấn các nhân chứng (Điều 1558-1571)

Tiết 4. Giá trị của các lời chứng (Điều 1572-1573)

Chương 4. Các giám định viên (Điều 1574-1581)

Chương 5. Đi đến hiện trường và kiểm định tư pháp (Điều 1582-1583)

Chương 6. Những suy đoán (Điều 1584-1586)

Đề mục 5. Những vụ án phụ (Điều 1587-1597)

Chương 1. Các bên không ra hầu tòa (Điều 1592-1595)

Chương 2. Sự can thiệp của đệ tam nhân vào vụ án (Điều 1596-1597)

Đề mục 6. Công bố án từ kết thúc việc thẩm cứu và tranh luận về vụ án (Điều 1698-1606)

Đề mục 7. Tuyên án (Điều 1607-1618)

Đề mục 8. Kháng án (Điều 1619-1640)

Chương 1. Tố quyền tiêu huỷ bản án (Điều 1619-1627)

Chương 2. Kháng cáo (Điều 1628-1640)

Đề mục 9. Vấn đề quyết tụng và việc phục hồi nguyên trạng (Điều 1641-1648)

Chương 1. Vấn đề quyết tụng (Điều 1641-1644)

Chương 2. Việc phục hồi nguyên trạng (Điều 1645-1648)

Đề mục 10. Án phí và bảo trợ án phí (Điều 1649)

Đề mục 11. Thi hành bản án (Điều 1650-1655)

Thiên 2. Xử án hộ sự khẩu biện (Điều 1656-1670)

PHẦN III. VÀI VỤ TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT (ĐIỀU 1671-1716)

Đề mục 1. Tố tụng hôn nhân (Điều 1671-1707)

Chương 1. Những vụ án tuyên bố hôn nhân bất thành (Điều 1671-1691)

Tiết 1. Tòa án có thẩm quyền (Điều 1671-1673)

Tiết 2. Quyền kháng nghị hôn nhân (Điều 1674-1675)

Tiết 3. Nhiệm vụ thẩm phán (Điều 1676-1677)

Tiết 4. Những chứng cớ (Điều 1678-1680)

Tiết 5. Bản án và kháng cáo (Điều 1681-1685)

Tiết 6. Tố tụng dựa trên tài liệu (Điều 1686-1688)

Tiết 7. Những quy tắc tổng quát (Điều 1689-1691)

Chương 2. Các vụ án vợ chồng ly thân (Điều 1692-1696)

Chương 3. Tố tụng để miễn chuẩn hôn nhân thành nhận và bất hoàn hợp (Điều 1697-1706)

Chương 4. Tố tụng suy đoán người phối ngẫu đã chết (Điều 1707)

Đề mục 2. Các vụ án tuyên bố việc truyền chức thánh bất thành (Điều 1708-1712)

Đề mục 3. Những cách thức tránh kiện tụng (Điều 1713-1716)

PHẦN IV. TỐ TỤNG HÌNH SỰ (ĐIỀU 1717-1731)

Chương 1. Điều tra sơ khởi (Điều 1717-1719)

Chương 2. Diễn tiến tố tụng (Điều 1720-1728)

Chương 3. Tố quyền đòi bồi thường thiệt hại (Điều 1729-1731)

PHẦN V. THỦ TỤC THƯỢNG CẦU CÓ TÍNH CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ THỦ TỤC GIẢI NHIỆM HAY THUYÊN CHUYỂN CÁC CHA SỞ (ĐIỀU 1732-1752)

Thiên 1. Thượng cầu chống lại những sắc lệnh hành chính (Điều 1732-1739)

Thiên 2. Thủ tục giải nhiệm hay thuyên chuyển các cha sở (Điều 1740-1752)

Chương 1. Thủ tục giải nhiệm các cha sở (Điều 1740-1747)

Chương 2. Thủ tục thuyên chuyển các cha sở (Điều 1748-1752)

Tra cứu

TÔNG HIẾN

SACRAE DISCIPLINAE LEGES

(CÁC LUẬT LỆ CỦA KỶ LUẬT THÁNH)

VỀ VIỆC ẤN HÀNH BỘ GIÁO LUẬT MỚI


Kính gửi chư huynh khả kính là các vị Hồng y,
Thượng phụ, Tổng Giám mục và Giám mục,
các linh mục và phó tế
cùng mọi thành phần dân Chúa.

GIO-AN PHAO-LÔ, GIÁM MỤC
ĐẦY TỚ CỦA CÁC ĐẦY TỚ THIÊN CHÚA
ĐỂ GHI NHỚ MUÔN ĐỜI


Qua dòng thời gian, Giáo Hội Công Giáo vẫn thường cải tổ và canh tân các luật lệ của kỷ luật thánh cho phù hợp với sứ mệnh cứu rỗi đã được trao cho mình, mà vẫn luôn trung thành với Đấng Sáng Lập thần linh.

Để giữ nguyên đường hướng đó và để đáp ứng lòng mong đợi của toàn thế giới Công Giáo, hôm nay ngày 25 tháng giêng năm 1983, Chúng tôi ra sắc lệnh ban hành Bộ Giáo Luật đã được tu chỉnh. Trong khi quyết định như thế, Chúng tôi nhớ lại là cũng vào ngày này năm 1959, vị tiền nhiệm của Chúng tôi là Đức Gio-an XXIII đã công khai loan báo lần đầu tiên việc cải tổ Bộ Giáo Luật hiện hành đã được ban hành năm 1917 trong dịp mừng trọng thể lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Trong cùng một ngày, chính Đức Giáo Hoàng đã đề cập đến việc quyết định canh tân Bộ Giáo Luật cùng với hai quyết định khác, đó là ý định triệu tập công nghị giáo phận Rô-ma và mở Công đồng chung. Trong hai biến cố ấy, tuy biến cố thứ nhất không có tương quan trực tiếp với việc cải tổ giáo luật, nhưng biến cố thứ hai, tức là Công đồng, có một tầm quan trọng chủ yếu trong vấn đề của chúng ta và chỉ gắn bó mật thiết với vấn đề này.

Nếu có người thắc mắc muốn biết vì sao Đức Gio-an XXIII cảm thấy cần phải cải tổ Bộ Luật hiện hành, thì câu trả lời có thể được tìm thấy trong chính Bộ Luật được ban hành năm 1917. Tuy nhiên, cũng còn một câu trả lời khác mang tính cách quyết định: đó là chính Công đồng mong muốn và yêu cầu cải tổ Bộ Giáo Luật, bởi vì Công đồng đã hết sức quan tâm đến Giáo Hội.

Rõ ràng là khi công bố lời loan báo đầu tiên về việc canh tân Bộ Giáo Luật, thì Công đồng lúc ấy còn là vấn đề tương lai. Phải thêm điều này là các văn kiện huấn giáo của Công đồng và nhất là giáo lý về Giáo Hội chỉ được hiệu chỉnh vào những năm 1962-1965; dù vậy, không ai chối cãi được là trực giác của Đức Gio-an XXIII chính xác đến mức nào và phải khẳng định là quyết định của ngài nhằm lợi ích của Giáo Hội.

Vậy thì Bộ Giáo Luật mới được công bố hôm nay tất nhiên đòi phải có tác động của Công đồng trước đã; và mặc dù được loan báo đồng thời với việc triệu tập Công đồng chung, nhưng tính theo thời gian thì Bộ Giáo Luật mới lại sinh ra sau Công đồng, bởi vì việc chuẩn bị biên soạn phải dựa vào Công đồng và chỉ có thể bắt đầu sau khi Công đồng kết thúc.

Nếu hôm nay chúng ta hồi tưởng lại khởi điểm của bước tiến này, tức là ngày 25 tháng giêng năm 1959, và hướng về chính bản thân Đức Gio-an XXIII là vị khởi xướng việc tu chỉnh Bộ Luật, chúng ta phải nhận rằng Bộ Luật này phát sinh từ một mục đích duy nhất, đó là phục hưng đời sống Ki-tô Giáo; thật vậy, chính từ mục đích này, mà toàn bộ tác phẩm của Công đồng đã rút ra các luật lệ và hướng đi của mình.

Giờ đây, nếu chúng ta nhìn lại các việc đã làm trước khi ban hành Bộ Giáo Luật cũng như cách thức làm, đặc biệt dưới các triều đại của Đức Phao-lô VI và của Đức Gio-an Phao-lô I, rồi từ đó cho đến nay, thì tất nhiên cần phải đề cao một cách rõ ràng là các công việc đã được hoàn thành cách tuyệt vời trong tinh thần tập đoàn. Tinh thần ấy không những được thể hiện trong hình thức biên soạn, mà còn trong chiều sâu, đối với nội dung các điều luật đã được soạn thảo nữa.

Tính cách tập đoàn đánh dấu rõ nét tiến trình phát sinh Bộ Luật này, hoàn toàn phù hợp với giáo huấn và đặc tính của Công đồng Va-ti-ca-nô II. Do đó Bộ Giáo Luật, không những trong nội dung, mà ngay việc khai sinh, đã thể hiện tinh thần của Công đồng. Thật vậy, các Văn kiện công đồng trình bày Giáo Hội, “bí tích phổ quát của ơn cứu rỗi” (x. Hiến chế Lumen Gentium, 1, 9, 48), như là Dân Chúa, với cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội dựa trên Giám mục đoàn, hiệp nhất với vị thủ lãnh của mình.

Chính vì lý do ấy mà các Giám mục và các Hội đồng Giám mục đã được mời gọi cộng tác vào việc chuẩn bị Bộ Luật mới, để qua chặng đường dài này, nhờ phương pháp tập đoàn trong mức độ có thể, các công thức pháp lý dần dần được chín muồi, và sau đó phải được sử dụng trong toàn thể Giáo Hội. Mặt khác, còn có sự cộng tác của các chuyên viên trong mọi giai đoạn của công việc này, tức là các nhà chuyên môn về thần học, lịch sử, nhất là giáo luật, được tuyển chọn từ khắp nơi trên thế giới.

Hôm nay, Chúng tôi muốn bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với tất cả và từng người một.

Trước hết, Chúng tôi tưởng nhớ các vị Hồng y Chủ Tịch Uỷ Ban Chuẩn Bị đã qua đời: Đức Hồng y Phê-rô Ciriaci là vị đã khởi sự công việc này và Đức Hồng y Pericles Felici là vị đã hướng dẫn tiến trình làm việc trong nhiều năm, cho đến lúc gần như hoàn tất. Tiếp đến, Chúng tôi nhớ đến các vị tổng thư ký của chính Uỷ Ban này: Đức ông Giacômô Violardo, sau này được cất nhắc làm Hồng y, và linh mục Raymondo Bidagor, Dòng Tên, cả hai đã dốc hết tài lực về kiến thức và khôn ngoan để chu toàn trách nhiệm. Cùng với các vị đó, Chúng tôi nhớ đến các Hồng y, Tổng Giám Mục, Giám mục và tất cả các thành viên của Uỷ Ban này, cũng như các cố vấn của các nhóm làm việc khác nhau đã dấn thân vào một công tác rất khó khăn suốt bao năm nay và trong thời gian đó, đã được Chúa gọi về lãnh phần thưởng đời đời. Chúng tôi dâng lời cầu nguyện lên Chúa cho từng vị ấy.

Chúng tôi cũng muốn nhớ đến những người đang còn sống, trước hết là vị đương kim quyền chủ tịch Uỷ Ban, Đức ông Rosalio Castillo Lara, người anh em đáng kính, đã làm việc cách hoàn hảo trong thời gian rất dài với một trách nhiệm rất nặng nề; tiếp đến là Đức Ông Villelmo Onclin, người con yêu quý của Chúng tôi, đã chuyên cần và nhiệt tâm góp phần vào việc kết thúc công trình này cách tốt đẹp; rồi đến tất cả các vị khác trong Uỷ Ban đã góp phần quý báu vào việc biên soạn và hoàn chỉnh một công trình vừa lâu dài vừa phức tạp, với tư cách hoặc là Hồng y thành viên, hoặc là hội viên, cố vấn và cộng tác viên trong các nhóm làm việc khác nhau hay trong các phận vụ khác.

Hôm nay, khi ban hành Bộ Giáo Luật, Chúng tôi hoàn toàn ý thức rằng hành vi này là một sự biểu lộ quyền Giáo Hoàng của chúng tôi, và do đó mang một đặc tính tối thượng. Tuy nhiên, Chúng tôi cũng ý thức rằng Bộ Giáo Luật này, xét theo nội dung khách quan, phản ảnh mối ưu tư tập đoàn của các anh em Chúng tôi trong chức Giám mục đối với Giáo Hội. Hơn nữa, phần nào giống như Công đồng, Bộ Giáo Luật này phải được coi như là thành quả của một sự hợp tác tập đoàn, bởi lẽ được phát sinh từ sự phối hợp sức lực của những cá nhân và những cơ quan chuyên môn trong Giáo Hội toàn cầu.

Một vấn nạn thứ hai về chính bản chất của Bộ Giáo Luật được đặt ra. Để trả lời đúng câu hỏi này, cần phải hướng tâm trí về di sản xa xưa của luật pháp được hàm chứa trong các sách Cựu Ước và Tân Ước, là nơi đã phát xuất toàn bộ truyền thống lề luật pháp chế của Giáo Hội, như nguồn mạch tiên khởi.

Thực vậy, Chúa Ki-tô không hề muốn hủy bỏ di sản cổ xưa của lề luật và của các tiên tri đã được hình thành dần dần qua lịch sử và kinh nghiệm của Dân Chúa trong Cựu Ước, nhưng Ngài đã đến kiện toàn di sản ấy (x. Mt 5, 17), đến nỗi di sản ấy đã trở thành một phần của di sản Tân Ước, dưới một bộ mặt mới mẻ và cao siêu hơn.

Vì vậy, mặc dù khi trình bày mầu nhiệm Vượt qua, thánh Phao-lô đã dạy rằng sự công chính hóa có được không phải là nhờ công việc của luật pháp mà nhờ Đức tin (x. Rm 3,28; x. Gl 2,16), nhưng ngài không loại bỏ tính cách bó buộc của thập giới (x. Rm 13,8-10; x. Gl 5,13-25; 6,2), và cũng chẳng phủ nhận tầm quan trọng của kỷ luật trong Giáo Hội (x. 1 Cr 5 và 6).

Do đó, các sách của Tân Ước cho phép chúng ta hiểu rõ hơn tầm quan trọng của kỷ luật và giúp chúng ta thấy rõ hơn mối liên hệ giữa kỷ luật và đặc tính cứu rỗi của sứ điệp Tin Mừng như thế nào.

Sự việc như thế rõ ràng cho thấy Bộ Giáo Luật không nhằm thay thế đức tin, ân sủng, các đoàn sủng và nhất là đức ái trong đời sống của Giáo Hội và của các tín hữu. Trái lại, mục đích của Bộ Giáo Luật là thành lập một trật tự trong cộng đồng Giáo Hội, chẳng hạn như khi xếp đức ái, ân sủng và các đoàn sủng vào hàng đầu, Bộ Giáo Luật đồng thời cũng giúp đức ái, ân sủng và các đoàn sủng được phát triển dễ dàng hơn trong đời sống của cộng đồng Giáo Hội cũng như trong đời sống của từng cá nhân là thành phần của cộng đồng ấy.

Phải xem giáo luật là một văn kiện luật pháp chính yếu của Giáo Hội dựa trên di sản luật lệ pháp chế của Mạc khải và Thánh truyền, và là dụng cụ nòng cốt để bảo đảm trật tự phải có trong đời sống cá nhân và cộng đồng, cũng như trong sinh hoạt của Giáo Hội. Vì thế, ngoài các yếu tố căn bản của cơ cấu phẩm trật và cơ cấu tổ chức của Giáo Hội, như ý muốn của Đấng Sáng Lập thần linh, hoặc căn cứ trên truyền thống rất cổ xưa, và ngoài các quy tắc tổng quát quy định việc thi hành ba nhiệm vụ đã được trao cho Giáo Hội, Bộ Giáo Luật cũng phải xác định một số quy tắc và chuẩn mực hành động nữa.

Bộ Giáo Luật là một dụng cụ hoàn toàn phù hợp với bản chất của Giáo Hội, đặc biệt đã được trình bày qua giáo huấn của Công đồng Va-ti-ca-nô II nói chung, và cách riêng trong học thuyết về Giáo Hội. Theo một nghĩa nào đó, người ta có thể thấy trong Bộ Giáo Luật một cố gắng phi thường để diễn đạt giáo lý công đồng về Giáo Hội bằng ngôn từ giáo luật. Tuy nhiên, nếu không thể diễn đạt hoàn toàn bằng ngôn ngữ giáo luật hình ảnh Giáo Hội theo Công đồng, thì ít ra Bộ Luật này cũng phải luôn luôn quy chiếu về hình ảnh ấy như khuôn mẫu tiên khởi, và nhờ chính bản chất của mình diễn tả được những đường nét của hình ảnh ấy ngần nào có thể.

Từ đó, người ta có thể rút ra vài tiêu chuẩn căn bản hướng dẫn tất cả Bộ Giáo Luật mới, trong khuôn khổ của lĩnh vực chuyên môn, cũng như trong ngôn ngữ được dùng. Người ta cũng có thể nói rằng chính từ đó mà Bộ Giáo Luật mang đặc tính bổ túc đối với Giáo Huấn của Công đồng Va-ti-ca-nô II, và cách riêng đối với hai Hiến chế, Tín lý và Mục vụ.

Bởi vậy, điều tạo nên sự mới mẻ chính yếu của Công đồng Va-ti-ca-nô II, trong sự liên tục với truyền thống lập pháp của Giáo Hội, nhất là trong những gì liên quan đến Giáo Hội học, cũng làm nên sự mới mẻ của Bộ Giáo Luật mới.

Trong các yếu tố diễn tả hình ảnh trung thực và chân chính của Giáo Hội, chúng ta phải làm nổi bật nhất là những điểm sau đây: giáo lý trình bày Giáo Hội như là Dân Chúa (x. Hiến chế Lumen Gentium, 2) và quyền bính phẩm trật như là việc phục vụ (x. Hiến chế Lumen Gentium, 3); rồi giáo lý bày tỏ Giáo Hội như mối hiệp thông và do đó ấn định những mối liên hệ hỗ tương phải có giữa Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát, giữa tập đoàn tính và quyền tối thượng; rồi giáo lý về việc tham dự của tất cả các thành phần Dân Thiên Chúa, mỗi người tùy theo thể thức của mình, vào ba chức vụ của Đức Ki-tô: tư tế, tiên tri và vương giả; gắn liền với giáo lý ấy, là giáo lý liên quan đến các nghĩa vụ và quyền lợi của các tín hữu, và cách riêng của giáo dân; sau cùng là việc dấn thân của Giáo Hội vào phong trào đại kết.

Vì vậy, nếu Công đồng Va-ti-ca-nô II đã rút ra từ kho tàng của Thánh Truyền cũ và mới, và nếu điều mới đó chính là những yếu tố chúng ta vừa nêu trên, thì rõ ràng là Bộ Giáo Luật phải phản chiếu tính cách trung thành trong sự mới mẻ và tính cách mới mẻ trong sự trung thành, và phải phù hợp với tính cách đó trong lĩnh vực riêng của mình và trong cách thế diễn tả riêng của mình.

Bộ Giáo Luật mới ra đời vào lúc các Giám mục trong toàn thể Giáo Hội không những yêu cầu ban hành mà hầu như còn nôn nóng thúc bách mạnh mẽ.

Thật ra, Bộ Giáo Luật rất cần cho Giáo Hội. Vì được tổ chức như một xã hội hữu hình, Giáo Hội cũng cần có những quy tắc: hoặc để phân định rõ rệt cơ cấu phẩm trật và cơ cấu tổ chức, hoặc để tổ chức cách xứng hợp việc thi hành các nhiệm vụ được Thiên Chúa trao phó, cách riêng những nhiệm vụ của thánh quyền và của việc cử hành các bí tích, hoặc để điều chỉnh các mối tương quan giữa các tín hữu với nhau dựa trên một sự công bằng đặt nền trên đức ái, nhờ việc xác định và bảo đảm quyền lợi của cá nhân; sau hết để nâng đỡ, củng cố và cổ vũ những sáng kiến chung nhắm tới một đời sống Ki-tô Giáo càng ngày càng hoàn hảo hơn nhờ giáo luật.

Sau cùng, các luật lệ của giáo luật tự bản tính đòi buộc phải được tuân giữ. Vì lý do đó, trong thời gian lâu dài chuẩn bị Bộ Luật, các nhà soạn luật đã hết sức quan tâm đến cách thức diễn tả các quy tắc, và để cho các quy tắc ấy có một nền tảng vững chắc về pháp lý, giáo luật và thần học.

Sau tất cả những nhận định trên, điều rất đáng mong ước là Bộ Giáo Luật mới này sẽ trở nên dụng cụ hữu hiệu để nhờ đó Giáo Hội có thể thăng tiến theo tinh thần Công đồng Va-ti-ca-nô II và ngày càng trở nên thích nghi hơn để chu toàn sứ mệnh cứu rỗi của mình trong thế giới.

Với niềm hân hoan và tin tưởng, Chúng tôi muốn chia sẻ những nhận định trên vào chính lúc Chúng tôi ban hành Bộ Giáo Luật chính yếu dành cho Giáo Hội La-tinh.

Nguyện xin Thiên Chúa làm cho niềm vui, bình an, công bình và vâng phục trở thành những điều bảo đảm cho Bộ Luật; và ước mong tất cả những điều do Đầu truyền ban đều được Thân Thể tuân giữ.

Do đó, tin tưởng vào sự trợ giúp của ơn thánh và dựa vào quyền hành của các thánh Phê-rô và Phao-lô tông đồ, ý thức rõ ràng hành vi Chúng tôi đang thực hiện và thuận theo các đề nghị của các Giám mục khắp hoàn cầu đã cộng tác với Chúng tôi trong một tinh thần tập đoàn, do quyền bính tối cao của Chúng tôi, Tông Hiến này có hiệu lực trong tương lai, Chúng tôi ban hành Bộ Luật hiện có như đã được chấn chỉnh và duyệt lại. Và Chúng tôi truyền từ nay về sau Bộ Luật này có giá trị pháp lý trong toàn thể Giáo Hội La-tinh và Chúng tôi ủy thác cho tất cả các vị hữu trách nhiệm vụ theo dõi, để Bộ Luật được tuân giữ.

Và để mọi người có thể tìm hiểu và lĩnh hội tường tận những quy định này, trước khi Bộ Luật có hiệu lực pháp lý, Chúng tôi tuyên bố và quyết định các quy định ấy chỉ có hiệu lực pháp lý kể từ ngày đầu tiên của Mùa Vọng năm 1983. Điều này đương nhiên bất chấp mọi quy định, hiến chế, đặc ân (cho dù đáng nhắc nhớ cách riêng hay cách đặc biệt) và các tục lệ trái ngược.

Do đó, Chúng tôi kêu mời tất cả mọi tín hữu hãy tuân thủ những quy tắc đã được đề xuất, với một tâm hồn chân thành và thiện chí trong niềm hy vọng rằng kỷ luật canh tân của Giáo Hội sẽ lại khởi sắc, để phần rỗi các linh hồn càng ngày càng được cổ vũ, nhờ sự trợ giúp của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ của Giáo Hội.


Ban hành tại Rô-ma, tại điện Va-ti-ca-nô, ngày 25 tháng giêng năm 1983, năm thứ năm triều đại Giáo Hoàng của chúng tôi.

Scroll to Top