Chương 3. Tố tụng để miễn chuẩn hôn nhân thành nhận và bất hoàn hợp (Điều 1697-1706)

Điều 1697

Chỉ hai vợ chồng hoặc một trong hai, mặc dầu người kia không muốn, mới có quyền xin phép chuẩn hôn nhân thành nhận và bất hoàn hợp.

Điều 1698

§1. Chỉ một mình Tông Tòa xét xử sự kiện bất hoàn hợp của hôn nhân và sự hiện hữu của một lý do chính đáng để ban phép chuẩn.

§2. Chỉ một mình Đức Giáo Hoàng Rôma ban phép chuẩn.

Điều 1699

§1. Giám mục giáo phận tại nơi đương sự có cư sở hay bán cư sở có thẩm quyền nhận đơn xin phép chuẩn và ra lệnh tiến hành thẩm cứu vụ án, nếu xét thấy đơn thỉnh nguyện có cơ sở.

§2. Tuy nhiên, nếu trường hợp đề ra có những khó khăn đặc biệt thuộc lĩnh vực pháp lý hay luân lý, Giám mục giáo phận phải xin ý kiến Tông Tòa.

§3. Nếu Giám mục ra sắc lệnh bác đơn thỉnh nguyện, thì có thể kháng án lên Tông Tòa để chống lại sắc lệnh này.

Điều 1700

§1. Giám mục phải trao việc thẩm cứu những vụ án đó cho tòa án giáo phận mình, hoặc cho tòa án giáo phận khác, hoặc cho một tư tế có khả năng, cách thường xuyên hay cho từng trường hợp một, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1681.

§2. Nhưng nếu đã nộp một lá đơn có tính cách pháp lý để xin tòa tuyên bố là chính hôn nhân đó bất thành, thì việc thẩm cứu phải được trao cho cùng một tòa án.

Điều 1701

§1. Bảo hệ viên luôn phải can thiệp vào các vụ này.

§2. Không chấp nhận có luật sư, nhưng Giám mục có thể cho phép nguyên cáo hay bị cáo nhờ một chuyên viên luật giúp đỡ trong trường hợp khó khăn.

Điều 1702

Trong khi thẩm cứu phải nghe cả hai người phối ngẫu và trong mức độ có thể, phải giữ các điều luật liên quan đến việc thu thập chứng cớ trong vụ án hộ sự thông thường và trong những vụ án hôn nhân bất thành, miễn là những điều luật đó có thể được thích nghi với bản chất của các vụ án này.

Điều 1703

§1. Các án từ không được công bố; tuy nhiên, nếu thẩm phán thấy có một trở ngại nghiêm trọng cho lời thỉnh cầu của nguyên cáo hay cho lời khước biện của bị cáo, vì những chứng cớ được viện dẫn, thì thẩm phán phải khôn ngoan báo cho đương sự liên hệ biết.

§2. Thẩm phán có thể chỉ cho đương sự nào yêu cầu xem một tài liệu đã được đệ nạp hay một chứng cớ đã được thu thập và ấn định một thời hạn để đương sự ấy đưa ra những nhận định.

Điều 1704

§1. Sau khi đã thẩm cứu, người thẩm cứu phải chuyển tất cả mọi án từ cùng với một bản tường trình thích hợp cho Giám mục, Giám mục phải soạn thảo ý kiến của mình dựa trên sự thật của sự kiện hôn nhân bất hoàn hợp, cũng như lý do chính đáng để miễn chuẩn, và sự thích hợp của phép chuẩn.

§2. Nếu việc thẩm cứu đã được trao cho một tòa án khác, chiếu theo quy tắc của điều 1700, thì những lời nhận xét bênh vực dây hôn nhân phải do cùng một tòa soạn thảo, nhưng ý kiến được nói ở §1 thuộc về Giám mục đã ủy quyền, và người thẩm cứu phải trao cho ngài một bản tường trình thích hợp cùng với những án từ.

Điều 1705

§1. Giám mục phải chuyển lên Tông Tòa tất cả các án từ cùng với ý kiến của mình và những nhận xét của bảo hệ viên.

§2. Nếu xét thấy cần phải bổ túc việc thẩm cứu, thì Tông Tòa sẽ thông báo cho Giám mục biết điều ấy và sẽ chỉ rõ những điểm cần phải thẩm cứu thêm.

§3. Nếu Tông Tòa phúc đáp rằng sự kiện hôn nhân bất hoàn hợp không được xác định qua những tài liệu được viện dẫn, thì chuyên viên luật được nói đến ở điều 1701 §2, có thể tham khảo những án từ của vụ án ở tòa án, ngoại trừ ý kiến của Giám mục, để nhận định xem có thể thêm một điều gì hệ trọng hay không, hầu đệ nạp một đơn thỉnh cầu mới.

Điều 1706

Phúc chiếu ban phép chuẩn được Tông Tòa chuyển đến Giám mục; vị này phải thông báo cho các bên biết phúc chiếu đó, ngoài ra ngài phải truyền lệnh cho cha sở tại nơi đã cử hành hôn nhân, cũng như cho cha sở tại nơi đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, càng sớm càng tốt, để ghi phép chuẩn đã ban vào sổ hôn nhân và sổ rửa tội.

Chương 2. Các vụ án vợ chồng ly thân (Điều 1692-1696)Chương 4. Tố tụng suy đoán người phối ngẫu đã chết (Điều 1707)