Đề mục 1. Luật Giáo Hội (Điều 7-22)

Điều 7

Luật được thiết lập khi được ban hành.

Điều 8

§1. Những luật phổ quát của Giáo Hội được ban hành bằng việc công bố trên báo Acta Apostolicae Sedis, trừ khi có một hình thức ban hành khác được quy định cho những trường hợp đặc thù, và những luật này chỉ có hiệu lực sau ba tháng, kể từ ngày được ghi trong số báo Acta, trừ khi những luật này buộc tức khắc do bản chất của sự việc, hay chính luật đã minh nhiên ấn định cách đặc biệt một thời hạn ngắn hơn hay dài hơn.

§2. Những luật địa phương được công bố theo thể thức do nhà lập pháp xác định và bắt đầu buộc sau một tháng, kể từ ngày được ban hành, nếu chính luật đó không ấn định một thời hạn nào cả.

Điều 9

Các luật nhằm tương lai, chứ không nhằm quá khứ, trừ khi luật đã dự liệu đích danh về những việc quá khứ.

Điều 10

Chỉ những luật nào minh nhiên ấn định rằng một hành vi không có hiệu lực hoặc một người không có khả năng, thì mới được xem là luật bãi hiệu hoặc luật bãi năng.

Điều 11

Những người đã được rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo hay những người đã được được nhận vào Giáo Hội Công giáo và là những người đã sử dụng đủ trí khôn và, nếu luật không minh nhiên dự liệu cách khác, đã được bảy tuổi trọn, buộc phải giữ những luật thuần túy Giáo Hội.

Điều 12

§1. Những luật phổ quát buộc tất cả những người mà luật nhằm đến trong bất cứ lãnh thổ nào.

§2. Tuy nhiên, tất cả những người hiện đang cư ngụ trong một lãnh thổ mà các luật phổ quát không có hiệu lực, thì họ không buộc phải giữ những luật đó.

§3. Các luật được thiết lập cho một lãnh thổ đặc thù thì buộc những người mà luật nhằm đến, và là những người có cư sở hay bán cư sở đồng thời hiện đang cư ngụ ở đó, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 13.

Điều 13

§1. Các luật địa phương không được suy đoán là luật tòng nhân nhưng là luật tòng thổ, trừ khi đã rõ cách khác.

§2. Các lữ khách không buộc phải giữ:

những luật địa phương của lãnh thổ họ, bao lâu họ còn vắng mặt, trừ khi việc vi phạm luật ấy gây thiệt hại cho lãnh thổ họ, hoặc vì những luật ấy là luật tòng nhân;

các luật của lãnh thổ họ đang cư ngụ, ngoại trừ những luật về trật tự công cộng, hoặc những luật xác định những thể thức của hành vi pháp lý, hoặc những luật liên can đến bất động sản trong lãnh thổ đó.

§3. Những người không có cư sở buộc phải tuân giữ cả những luật phổ quát và những luật địa phương hiện đang có hiệu lực tại nơi họ cư ngụ.

Điều 14

Trong trường hợp hồ nghi về pháp luật, luật không buộc, kể cả những luật bãi hiệu hay bãi năng; trong trường hợp hồ nghi về sự kiện, thì các Đấng Bản Quyền có thể chuẩn những luật đó, với điều kiện, nếu là một sự miễn chuẩn được dành riêng, nhà chức trách chuẩn ngăn trở dành riêng vẫn thường ban phép chuẩn này.

Điều 15

§1. Sự không biết hay sự lầm lẫn về những luật bãi hiệu hay bãi năng không làm cho những luật này mất hiệu lực, trừ khi luật đã minh nhiên ấn định cách khác.

§2. Sự không biết hay sự lầm lẫn về luật hoặc về hình phạt, Về sự kiện của riêng mình hoặc về sự kiện hiển nhiên của người khác, đều không được suy đoán; sự không biết hay sự lầm lẫn về sự kiện không hiển nhiên của người khác thì được suy đoán cho đến khi có chứng cớ ngược lại.

Điều 16

§1. Người giải thích luật cách chính thức là nhà lập pháp, cũng như người được vị này ủy quyền giải thích luật cách chính thức.

§2. Sự giải thích chính thức được thực hiện theo thể thức luật, thì có cùng hiệu lực như chính luật và phải được ban hành; nếu chỉ tuyên bố là ý nghĩa ngôn từ của luật tự nó đã chính xác rồi, thì sự giải thích chính thức có hiệu lực hồi tố; nếu giới hạn hay nới rộng luật hoặc vạch rõ một luật hồ nghi, thì sự giải thích chính thức không có hiệu lực hồi tố.

§3. Tuy nhiên, sự giải thích theo thể thức của một bản án tại tòa hay theo thể thức của một văn kiện hành chính trong một vấn đề riêng biệt, thì không có hiệu lực pháp lý và sự giải thích này chỉ ràng buộc những người nào và chỉ liên quan đến những vấn đề nào mà luật nhắm tới.

Điều 17

Luật Giáo Hội phải được hiểu theo nghĩa đen của từ ngữ trong bản văn và trong mạch văn; nếu còn hồ nghi và tối nghĩa thì phải nại đến những chỗ tương tự, nếu có, đến mục đích và những hoàn cảnh của luật cũng như đến ý định của nhà lập pháp.

Điều 18

Những luật ấn định một hình phạt hay hạn chế tự do sử dụng các quyền lợi hoặc hàm chứa một điều ngoại lệ, thì phải được giải thích theo nghĩa hẹp.

Điều 19

Trong một trường hợp đã được xác định, nếu không có quy định minh nhiên của luật phổ quát hay của luật địa phương hoặc nếu không có tục lệ, thì sự việc phải được giải quyết theo những luật đã được ban hành trong những trường hợp tương tự, theo những nguyên tắc tổng quát của luật đã được áp dụng với sự hợp tình hợp lý của giáo luật, theo án lệ và cách thực hành của Giáo Triều Rôma, theo ý kiến chung và kiên định của các học giả, trừ khi đó là vụ án hình sự.

Điều 20

Luật sau bãi bỏ hoặc sửa đổi luật trước, nếu luật sau minh nhiên quy định như vậy, hoặc trực tiếp ngược với luật trước, hoặc đã sắp xếp lại toàn bộ nội dung luật trước. Nhưng luật phổ quát không sửa đổi luật địa phương hay luật đặc biệt, trừ khi luật đã minh nhiên dự liệu cách khác.

Điều 21

Trong trường hợp hồ nghi, không được suy đoán là luật trước đã bị thu hồi, nhưng các luật sau phải được liên kết và phải được dung hòa với các luật trước bao nhiêu có thể.

Điều 22

Những luật dân sự được luật Giáo Hội dẫn chiếu phải được tuân giữ trong giáo luật với cùng những hiệu lực pháp lý, trong mức độ những luật đó không trái với luật Thiên Chúa, và nếu giáo luật không dự liệu cách khác.

QUYỂN I. NHỮNG QUY TẮC TỔNG QUÁT (ĐIỀU 1-203)Đề mục 2. Tục lệ (Điều 23-28)