Mục 2: Bí tích Thêm Sức (1285-1321)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

1285

Bí tích Thêm Sức cùng với bí tích Rửa Tội và Thánh Thể tạo thành tổng thể “các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo”, mà sự thống nhất của nó phải được giữ gìn. Vì thế, phải giải thích cho các tín hữu biết việc lãnh nhận bí tích Thêm Sức là cần thiết để hoàn tất ân sủng của bí tích Rửa Tội.90 Thật vậy, những người đã chịu Phép Rửa “nhờ bí tích Thêm Sức, được liên kết với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn, được dư đầy sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần, và như vậy, với tư cách là những nhân chứng thật của Đức Ki-tô, họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền và đồng thời bảo vệ đức tin bằng lời nói và việc làm.”91

I. Bí tích Thêm Sức trong Nhiệm cục cứu độ (1286-1292)

1286702-716

Trong Cựu Ước các tiên tri đã loan báo rằng Thần Khí Chúa sẽ ngự xuống trên Đấng Mê-si-a thiên hạ đợi trông92 vì sứ vụ cứu độ của Người.93 Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su, khi Người được ông Gio-an làm phép rửa, là dấu chỉ cho thấy chính Người là Đấng phải đến, chính Người là Đấng Mê-si-a, là Con Thiên Chúa.94 Chúa Giê-su đã được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần; trọn cuộc đời và sứ vụ của Người đều hiệp thông trọn vẹn với Chúa Thánh Thần, Đấng “Chúa Cha ban cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,34).

1287739

Tuy nhiên, việc tràn đầy Thần Khí không phải chỉ dành cho Đấng Mê-si-a, mà phải được truyền thông cho toàn thể dân của Đấng Mê-si-a95 . Nhiều lần, Đức Ki-tô đã hứa việc tuôn ban Thần Khí như vậy,96 và Người đã thực hiện lời hứa đó trước tiên vào ngày lễ Vượt Qua,97 và sau đó, một cách hoành tráng hơn, vào ngày lễ Ngũ Tuần.98 Được tràn đầy Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11), và thánh Phê-rô công bố rằng việc tuôn đổ Thánh Thần này là dấu chỉ thời đại Mê-si-a.99 Lúc đó những ai tin lời rao giảng của các Tông Đồ và chịu Phép Rửa, thì đến lượt họ cũng được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần.100

1288699

“Từ đó, thực hiện ý muốn của Đức Ki-tô, các Tông Đồ đã đặt tay ban hồng ân Thần Khí cho các tân tòng để kiện toàn ân sủng của bí tích Rửa Tội.101 Chính vì vậy, như trong thư gửi tín hữu Do-thái, giáo lý về các phép rửa và về việc đặt tay đã được kể vào số các yếu tố của giáo huấn sơ đẳng của Ki-tô Giáo.102 Việc đặt tay được công nhận cách đúng đắn theo truyền thống công giáo là nguồn gốc của bí tích Thêm Sức, và một cách nào đó, bí tích này làm cho ân sủng ngày lễ Ngũ Tuần luôn tồn tại trong Hội Thánh.”103

1289695, 436, 1297

Từ rất xa xưa, để biểu thị rõ hơn hồng ân Chúa Thánh Thần, việc xức dầu thơm (dầu Chrisma) được liên kết với việc đặt tay. Việc xức dầu này làm sáng tỏ danh xưng “Ki-tô hữu” (Christianus) có nghĩa là “người được xức dầu” và bắt nguồn từ danh xưng của chính Đức Ki-tô (Christus): “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Nghi thức Xức Dầu này tồn tại đến ngày nay trong nghi lễ Đông cũng như Tây phương. Vì vậy, ở Đông phương, bí tích này được gọi là bí tích Dầu Chrisma (Christmatio là việc xức bằng dầu Myron, nghĩa là Dầu thánh). Ở Tây phương, thuật ngữ bí tích Thêm Sức (Confirmatio) nói lên rằng bí tích này vừa kiện toàn bí tích Rửa Tội, vừa củng cố ân sủng của bí tích Rửa Tội.

Hai truyền thống: Đông phương và Tây phương (1290-1292)

12901233

Trong những thế kỷ đầu, bí tích Thêm Sức thường được cử hành chung với bí tích Rửa Tội, thành một “bí tích kép”, theo kiểu nói của thánh Cyprianô.104 Ngoài các lý do khác, còn có sự gia tăng việc ban bí tích Rửa Tội cho các nhi đồng trong suốt năm, và có thêm nhiều giáo xứ (ở đồng quê), các giáo phận lớn dần, những điều này khiến Giám mục không thể hiện diện trong tất cả các cử hành rửa tội được nữa. Ở Tây phương, bởi vì người ta muốn dành cho Giám mục việc hoàn tất bí tích Rửa Tội, nên đã tách biệt về thời gian của hai bí tích này. Đông phương vẫn duy trì việc liên kết hai bí tích trên, nên bí tích Thêm Sức được ban do vị linh mục cử hành Phép Rửa. Tuy nhiên, vị này chỉ có thể ban bí tích Thêm Sức với dầu thánh đã được Giám mục thánh hiến.105

12911242

Một thói quen của Giáo Hội Rô-ma giúp phát triển cách thực hành của Tây phương, đó là việc xức dầu thánh hai lần sau khi Rửa Tội. Lần đầu do linh mục thực hiện trên người tân tòng vừa bước ra khỏi giếng rửa tội; việc xức dầu này chỉ được hoàn tất bằng việc xức dầu lần thứ hai do Giám mục ghi trên trán mỗi người tân tòng.106 Việc xức dầu thánh lần thứ nhất do linh mục thực hiện, vẫn thuộc về nghi thức rửa tội; nó nói lên sự tham dự của nguời chịu Phép Rửa vào các chức vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Đức Ki-tô. Nếu bí tích Rửa Tội được ban cho người thành niên, thì chỉ có một lần xức dầu sau khi rửa tội: đó là việc xức dầu của bí tích Thêm Sức.

12921244

Cách thực hành của các Giáo Hội Đông phương nhấn mạnh hơn đến tính thống nhất của việc khai tâm Ki-tô Giáo. Cách thực hành của Giáo Hội La-tinh diễn tả rõ ràng hơn sự hiệp thông của Ki-tô hữu mới với Giám mục của mình, là người bảo đảm và người phục vụ cho sự hợp nhất của Hội Thánh, cho đặc tính công giáo và tông truyền của Hội Thánh, và nhờ đó là mối dây liên kết với các nguồn gốc Tông Đồ của Hội Thánh Đức Ki-tô.

II. Các dấu chỉ và nghi thức của bí tích Thêm Sức (1293-1301)

1293695

Trong nghi thức của bí tích này, phải lưu ý đến dấu chỉ xức dầu và điều mà việc xức dầu nói lên và ghi dấu: đó là ấn tín thiêng liêng.

Việc xức dầu, theo ý nghĩa biểu tượng của Kinh Thánh và văn hóa cổ thời, có rất nhiều ý nghĩa: dầu là dấu chỉ sự sung mãn107 và niềm vui,108 dầu dùng để thanh tẩy (xức dầu trước và sau khi tắm), dầu làm cho dẻo dai (xức dầu cho các lực sĩ và các đô vật); dầu là dấu chỉ chữa lành bởi vì nó làm giảm đau các vết bầm và vết thương;109 dầu làm nổi bật vẻ đẹp, sức khỏe và sức mạnh.

12941152

Tất cả các ý nghĩa đó của việc xức dầu đều được gặp lại trong đời sống bí tích. Việc xức dầu dự tòng trước bí tích Rửa Tội có ý nghĩa thanh tẩy và tăng sức. Việc xức dầu bệnh nhân diễn tả sự chữa lành và an ủi. Việc xức dầu Thánh sau bí tích Rửa Tội, trong bí tích Thêm Sức và Truyền Chức Thánh, là dấu chỉ sự thánh hiến. Nhờ bí tích Thêm Sức, các Ki-tô hữu, nghĩa là những người đã được xức dầu, tham dự nhiều hơn vào sứ vụ của Chúa Giê-su Ki-tô và vào sự tràn đầy Chúa Thánh Thần như Người, để cả cuộc đời của họ tỏa ngát hương thơm của Đức Ki-tô.110

1295698

Nhờ việc xức dầu này, người lãnh nhận bí tích Thêm Sức nhận được một dấu chỉ, là ấn tín của Chúa Thánh Thần. Ấn tín là biểu tượng của một nhân vật,111 là dấu chỉ uy quyền của người đó,112 dấu chỉ quyền sở hữu của người đó trên một đối tượng nào đó113 – bởi vậy ngày xưa, các binh sĩ được ghi dấu bằng ấn tín của vị chỉ huy họ, các nô lệ cũng được ghi dấu bằng ấn tín của chủ mình -; ấn tín chứng thực một văn kiện pháp lý114 hay một tài liệu115 và có khi ấn tín niêm phong làm cho tài liệu đó trở thành một tài liệu mật.116

12961121

Chính Đức Ki-tô tuyên bố Người được ghi dấu bằng ấn tín của Cha Người.117 Ki-tô hữu cũng được ghi dấu bằng một ấn tín: “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô, và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Ngài cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,21-22).118 Ấn tín này của Chúa Thánh Thần xác nhận một người hoàn toàn thuộc về Đức Ki-tô, để vĩnh viễn phục vụ Người, nhưng ấn tín đó cũng là một lời hứa là được Thiên Chúa che chở trong cuộc thử thách lớn lao thời cánh chung.119

Việc cử hành bí tích Thêm Sức (1297-1301)

12971183, 1241

Một nghi thức quan trọng đi trước việc cử hành bí tích Thêm sức, nhưng một cách nào đó cũng dự phần trong việc cử hành này, đó là việc thánh hiến dầu thánh. Chính Giám mục, trong Thánh lễ Dầu ngày thứ năm Tuần Thánh, thánh hiến dầu thánh để sử dụng trong toàn giáo phận của ngài. Trong các Giáo Hội Đông phương, việc thánh hiến này cũng dành riêng cho vị Thượng phụ.

Trong Phụng vụ An-ti-ô-khi-a, kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) trong nghi thức thánh hiến dầu thánh (tiếng Hy-lạp là myron) là như sau: “Lạy Cha… xin sai Chúa Thánh Thần đến trên chúng con và trên dầu này đang đặt trước mặt chúng con đây và xin Cha thánh hiến dầu này, để đối với mọi người được xức và được ghi dấu, nó sẽ là dầu thánh, dầu tư tế, dầu vương đế, y phục sáng láng, áo choàng của ơn cứu độ, sự che chở đời sống, hồng ân thiêng liêng, ơn thánh hóa linh hồn và thân xác, sự hoan lạc của tâm hồn, sự ngọt ngào vĩnh cửu, niềm vui vững bền, ấn tín không thể tẩy xóa, khiên thuẫn của đức tin, và mũ chiến gây kinh hoàng chống lại mọi hành động của Kẻ Thù.”120

1298

Khi bí tích Thêm Sức được cử hành tách biệt khỏi bí tích Rửa Tội, như trong nghi thức Rô-ma, thì phụng vụ bí tích bắt đầu bằng việc lặp lại lời hứa Phép Rửa và việc tuyên xưng đức tin của người sắp nhận bí tích Thêm Sức. Điều này cho thấy cách rõ ràng là bí tích Thêm Sức có sự liên tục với bí tích Rửa Tội.121 Khi một người thành niên được rửa tội, thì liền sau đó họ sẽ lãnh nhận bí tích Thêm Sức và tham dự vào bí tích Thánh Thể.122

12991831

Trong nghi thức Rô-ma, Giám mục giơ tay trên toàn thể những người lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Từ thời các Thánh Tông Đồ, cử chỉ này là dấu chỉ hồng ân của Thần Khí. Và Giám mục cầu khẩn việc tuôn đổ Thần Khí như sau:

“Lạy Thiên Chúa toàn năng, là Cha Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con,
Chúa đã tái sinh các tôi tớ Chúa đây bởi nước và Thánh Thần khi giải thoát họ khỏi tội lỗi,
thì lạy Chúa, xin hãy ban Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi đến trong những người này;
xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu,
thần trí lo liệu và sức mạnh,
thần trí suy biết và đạo đức,
xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa.
Nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.”123

1300699

Tiếp theo là nghi thức chính yếu của bí tích. Trong nghi lễ La-tinh, “bí tích Thêm Sức được trao ban bằng việc xức dầu thánh trên trán, đồng thời với việc đặt tay và đọc lời này: ‘T…, hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần’.”124 Trong các Giáo hội Đông phương theo nghi lễ Byzantin, việc xức dầu thánh được thực hiện sau kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần, trên những phần có ý nghĩa hơn của thân thể: trán, mắt, mũi, tai, môi, ngực, lưng, hai tay và hai chân; mỗi lần xức dầu, chủ sự nói: “Tôi ghi dấu cho anh bằng hồng ân của Chúa Thánh Thần.”125

1301

Cái hôn bình an kết thúc nghi thức bí tích, nói lên và biểu lộ sự hiệp thông trong Hội Thánh với Giám mục và với tất cả các tín hữu.126

III. Những hiệu quả của bí tích Thêm Sức (1302-1305)

1302731

Việc cử hành cho thấy rõ hiệu quả của bí tích Thêm Sức là sự tuôn đổ tràn đầy Chúa Thánh Thần, như xưa Ngài đã được tuôn đổ trên các Tông Đồ ngày lễ Ngũ Tuần.

13031262-1274, 2044

Vì vậy, bí tích Thêm Sức mang lại sự gia tăng và thấm nhuần sâu xa hơn ân sủng của bí tích Rửa Tội:

— giúp chúng ta bén rễ sâu hơn vào việc làm con cái Thiên Chúa, trong đó chúng ta kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” (Rm 8,15);

— kết hợp chúng ta với Đức Ki-tô cách khăng khít hơn;

— gia tăng trong chúng ta các hồng ân của Chúa Thánh Thần;

— làm cho dây liên kết của chúng ta với Hội Thánh được hoàn hảo hơn;127

— ban cho chúng ta sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần, để chúng ta dùng lời nói và việc làm mà truyền bá và bảo vệ đức tin với tư cách là những chứng nhân đích thực của Đức Ki-tô, để chúng ta can đảm tuyên xưng danh Đức Ki-tô và không bao giờ hổ thẹn vì Thập Giá:128

“Vậy anh em nhớ, anh em đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần: Thần Khí khôn ngoan và thông hiểu, Thần Khí lo liệu và sức mạnh, Thần Khí suy biết và đạo đức, Thần Khí của sự kính sợ Thiên Chúa, và hãy gìn giữ những gì anh em đã lãnh nhận. Chúa Cha đã ghi ấn tín cho anh em, Chúa Ki-tô đã tăng sức cho anh em và đã đặt bảo chứng, là Chúa Thánh Thần, vào trái tim anh em.”129

13041121

Bí tích Thêm Sức là sự kiện toàn bí tích Rửa Tội, và cũng như bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức chỉ được ban một lần mà thôi. Bí tích Thêm Sức in vào linh hồn một dấu ấn thiêng liêng không thể tẩy xóa được, một “ấn tín”,130 đó là dấu ấn Đức Ki-tô đã ghi cho Ki-tô hữu bằng ấn tín của Chúa Thánh Thần, khi ban xuống cho họ sức mạnh từ trên cao để họ trở nên chứng nhân của Người.131

13051268

“Ấn tín” này kiện toàn chức tư tế cộng đồng của các tín hữu mà họ đã lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội. “Người lãnh bí tích Thêm Sức nhận được sức mạnh để công khai tuyên xưng đức tin vào Đức Ki-tô bằng lời nói, như do một chức vụ chính thức (quasi ex officio)”132 .

IV. Ai có thể lãnh nhận bí tích Thêm Sức? (1306-1311)

13061212

Mọi người đã được Rửa Tội mà chưa được Thêm Sức, đều có thể và phải lãnh nhận bí tích Thêm Sức.133 Bởi vì các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể tạo thành một thể thống nhất, nên “các tín hữu buộc phải lãnh nhận bí tích Thêm Sức vào thời gian thích hợp”,134 bởi vì nếu không có bí tích Thêm Sức và Thánh Thể, thì tuy bí tích Rửa Tội vẫn chắc chắn thành sự và hữu hiệu, nhưng việc khai tâm Ki-tô Giáo vẫn chưa được trọn vẹn.

1307

Thói quen của Giáo Hội La-tinh, đã từ nhiều thế kỷ, lấy “tuổi biết phân biệt tốt xấu” như thời điểm phải quy chiếu để lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Nhưng trong trường hợp nguy tử, các nhi đồng phải được Thêm Sức, mặc dầu chúng chưa đến tuổi biết phân biệt tốt xấu.135

13081250

Nếu đôi khi chúng ta gọi bí tích Thêm Sức là “bí tích của sự trưởng thành Ki-tô Giáo”, thì đừng vì vậy mà lẫn lộn tuổi trưởng thành về đức tin với tuổi trưởng thành của sự tăng trưởng tự nhiên; cũng đừng quên rằng ân sủng của bí tích Rửa Tội là một ân sủng của sự tuyển chọn nhưng không (của Thiên Chúa) chứ không do công trạng (của chúng ta), nó không cần một “xác nhận” nào để trở thành có hiệu lực. Thánh Tô-ma nhắc nhớ điều đó:

“Tuổi tác phần xác không làm hại đến linh hồn. Bởi đó cả trong tuổi thơ, con người cũng có thể đạt sự trọn hảo của tuổi tinh thần: về điều này sách Khôn Ngoan dạy: ‘Tuổi thọ đáng kính không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi’ (Kn 4,8). Vì vậy, có nhiều trẻ em, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà chúng đã lãnh nhận, đã anh dũng chiến đấu đến đổ máu vì Đức Ki-tô.”136

1309

Việc chuẩn bị cho bí tích Thêm Sức phải nhắm dẫn đưa Ki-tô hữu đến sự kết hợp thân mật hơn với Đức Ki-tô, đến sự kết hợp sống động hơn với Chúa Thánh Thần, với hoạt động của Ngài, với các hồng ân của Ngài, với sự thân thiết trước những mời gọi của Ngài, để họ có thể đảm nhận cách tốt hơn những trách nhiệm tông đồ của đời sống Ki-tô hữu. Do đó, giáo lý Thêm Sức phải cố gắng khơi dậy ý thức mình thuộc về Hội Thánh của Chúa Giê-su Ki-tô, Hội Thánh phổ quát cũng như cộng đoàn giáo xứ. Cộng đoàn này có trách nhiệm đặc biệt trong việc chuẩn bị cho những người sắp chịu phép Thêm Sức.137

13102670

Để lãnh nhận bí tích Thêm Sức, phải ở trong tình trạng ân sủng. Phải đến với bí tích Hòa Giải để được thanh tẩy hầu đón nhận hồng ân của Chúa Thánh Thần. Phải cầu nguyện tha thiết hơn để chuẩn bị lãnh nhận sức mạnh và các ân sủng của Chúa Thánh Thần với tâm hồn vâng phục và sẵn sàng.138

13111255

Đối với bí tích Thêm Sức, cũng như đối với bí tích Rửa Tội, các ứng viên phải có cha hay mẹ đỡ đầu, để được trợ giúp thiêng liêng. Nên chọn chính người đỡ đầu Rửa Tội để làm rõ nét sự thống nhất của hai bí tích này.139

V. Thừa tác viên bí tích Thêm Sức (1312-1314)

13121233

Thừa tác viên nguyên thủy của bí tích Thêm Sức là Giám mục.140Đông phương, thông thường linh mục nào ban bí tích Rửa Tội, sẽ ban luôn bí tích Thêm Sức trong cùng một cử hành. Tuy nhiên, linh mục phải dùng dầu thánh đã được vị Thượng phụ hay Giám mục thánh hiến, để nói lên tính duy nhất tông truyền của Hội Thánh mà các dây liên kết của tính duy nhất đó được củng cố nhờ bí tích Thêm Sức. Trong Giáo Hội La-tinh trình tự này cũng được áp dụng khi rửa tội cho người thành niên, hay khi đón nhận vào hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công Giáo, một người đã chịu Phép Rửa trong một cộng đoàn Ki-tô Giáo khác, mà chưa lãnh nhận bí tích Thêm Sức thành sự.141

13131290, 1285

Trong nghi lễ La-tinh, thừa tác viên thông thường của bí tích Thêm Sức là Giám mục.142 Khi cần, Giám mục có thể ủy quyền cho các linh mục ban bí tích Thêm Sức;143 nhưng ngài không được quên rằng, việc ban bí tích Thêm Sức được dành cho ngài, đó chính là lý do khiến việc cử hành bí tích Thêm Sức đã được tách biệt khỏi bí tích Rửa Tội một khoảng thời gian. Các Giám mục là những người kế nhiệm các Tông Đồ, các ngài đã được lãnh nhận sự viên mãn của bí tích Truyền Chức Thánh. Việc chính các ngài cử hành bí tích Thêm Sức, nói lên cách rõ ràng rằng, bí tích Thêm Sức đem lại hiệu quả là những người lãnh nhận bí tích này được kết hợp một cách chặt chẽ hơn với Hội Thánh, với các nguồn gốc tông truyền của Hội Thánh và với sứ vụ của Hội Thánh là làm chứng cho Đức Ki-tô.

13141307

Nếu một Ki-tô hữu đang trong tình trạng nguy tử, thì bất cứ linh mục nào cũng có thể ban bí tích Thêm Sức cho họ.144 Thật vậy, Hội Thánh muốn rằng không người con nào của mình, kể cả trẻ nhỏ nhất, phải lìa đời mà trước đó chưa được Chúa Thánh Thần kiện toàn bằng hồng ân do sự sung mãn của Đức Ki-tô.

Tóm lược (1315-1321)

1315

“Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận Lời Thiên Chúa, thì cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ, họ mới chỉ chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giê-su. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần” (Cv 8,14-17).

1316

Bí tích Thêm Sức kiện toàn ân sủng Rửa Tội. Đây là bí tích ban Chúa Thánh Thần để giúp chúng ta tiến sâu hơn vào ơn làm con cái Thiên Chúa, tháp nhập chúng ta cách mật thiết hơn vào Đức Ki-tô, làm cho dây liên kết với Hội Thánh được chặt chẽ hơn, gắn bó thiết thực hơn với sứ mạng của Hội Thánh và giúp chúng ta làm chứng cho đức tin Ki-tô Giáo bằng lời nói và việc làm.

1317

Như bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức cũng in vào tâm hồn tín hữu một dấu ấn thiêng liêng, một ấn tín không tẩy xóa được. Vì thế, mỗi người chỉ có thể lãnh nhận bí tích Thêm Sức một lần mà thôi.

1318

Ở Đông phương, bí tích Thêm Sức được trao ban liền sau bí tích Rửa Tội; tiếp đó, là việc tham dự bí tích Thánh Thể – một truyền thống làm nổi bật sự thống nhất của ba bí tích khai tâm Ki-tô Giáo. Giáo Hội La-tinh ban bí tích Thêm Sức cho các em đã tới tuổi khôn; và thường dành quyền ban bí tích này cho Giám mục để thấy rõ bí tích này củng cố sự liên kết với Hội Thánh.

1319

Người muốn lãnh bí tích Thêm Sức phải là người đã đạt tới tuổi khôn, phải tuyên xưng đức tin, phải đang trong tình trạng ân sủng, có ý muốn lãnh nhận bí tích và được chuẩn bị để lãnh nhận vai trò môn đệ và chứng nhân của Đức Ki-tô, trong cộng đoàn giáo hội cũng như trong các lãnh vực trần thế.

1320

Nghi thức chính yếu của bí tích Thêm Sức là việc xức dầu thánh trên trán người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội (Giáo Hội Đông phương còn xức dầu trên những phần khác của thân thể), cùng với việc đặt tay của thừa tác viên và đọc: “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần” (nghi lễ La-tinh) hay “Ấn tín ơn Chúa Thánh Thần” (nghi lễ Byzantin).

1321

Khi bí tích Thêm Sức được cử hành tách khỏi bí tích Rửa Tội, dây liên hệ với bí tích Rửa Tội được diễn tả, ngoài các việc khác, bằng việc lặp lại lời hứa trong bí tích Rửa Tội. Việc trao ban bí tích Thêm Sức trong Thánh lễ nhằm nhấn mạnh tính thống nhất của các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo.


Chú thích

90 X. Nghi thức Bí tích Thêm Sức, Praenotanda 1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 16.

91 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15; x. Nghi thức Bí tích Thêm Sức, Praenotanda 2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 16.

92 X. Is 11,2.

93 X. Lc 4,16-22; Is 61,1.

94 X. Mt 3,13-17; Ga 1,33-34.

95 X. Ed 36,25-27; Ge 3,1-2.

96 X. Lc 12,12; Ga 3,5-8; 7,37-39; 16,7-15; Cv 1,8.

97 X. Ga 20,22.

98 X. Cv 2,1-4.

99 X. Cv 2,17-18.

100 X. Cv 2,38.

101 X. Cv 8,15-17; 19,5-6.

102 X. Dt 6,2.

103 ĐGH Phao-lô VI, Tông hiến Divinae consortium naturae: AAS 63 (1971) 659.

104 X. Thánh Cyprianô, Epistula 73,21: CSEL 3/2, 795 (PL 3,1169).

105 X. Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 695,1.696,1.

106 X. Thánh Hippôlytô Rô-ma, Traditio apostolica, 21: ed. B. Botte (Münster i.W. 1989) 50.52.

107 X. Đnl 11,14; etc.

108 X. Tv 23,5; 104,15.

109 X. Is 1,6; Lc 10,34.

110 X. 2 Cr 2,15.

111 X. St 38,18; Dc 8,6.

112 X. St 41,42.

113 X. Đnl 32,34.

114 X. 1 V 21,8.

115 X. Gr 32,10;

116 X. Is 29,11.

117 X. Ga 6,27.

118 X. Ep 1,13; 4,30.

119 X. Kh 7,2-3; 9,4; Ed 9,4-6.

120 Pontificale iuxta ritum Ecclesiae Syrorum Occidentalium id est Antiochiae, Pars I, Versio latina (Typis Polyglottis Vaticanis 1941) 36-37.

121 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 71: AAS 56 (1964) 118.

122 X. Bộ Giáo Luật, điều 866.

123 Nghi thức Bí tích Thêm Sức, 25 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 26.

124 ĐGH Phao-lô VI, Tông hiến Divinae consortium naturae: AAS 63 (1971) 657.

125 Rituale per le Chiese orientali di rito bizantino in lingua greca, Pars 1 (Libreria Editrice Vaticana 1954) 36.

126 X. Thánh Hippôlytô Rô-ma, Traditio apostolica, 21: ed. B. Botte (Münster i.W. 1989) 54.

127 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965).

128 X. CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis: DS 1319; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15; Ibid., 12 : AAS 57 (1965) 16.

129 Thánh Ambrôsiô, De mysteriis, 7, 42 : CSEL 73,106 (PL 16,402-403).

130 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis, Canones de sacramentis in genere, canon 9: DS 1609.

131 X. Lc 24,48-49.

132 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 72, a. 5, ad 2 : Ed. Leon. 12, 130.

133 X. Bộ Giáo Luật, điều 889,1.

134 Bộ Giáo Luật, điều 890.

135 X. Bộ Giáo Luật, các điều 891.883,3.

136 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 72, a. 8, ad 2 : Ed. Leon. 12, 133.

137 X. Nghi thức Bí tích Thêm Sức, Praenotanda, 3 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 16.

138 X. Cv 1,14.

139 X. Nghi thức Bí tích Thêm Sức, Praenotanda, 5 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 17; Ibid., 6 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 17; Bộ Giáo Luật, điều 893,1-2.

140 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 26: AAS 57 (1965) 32.

141 X. Bộ Giáo Luật, điều 883,2.

142 X. Bộ Giáo Luật, điều 882.

143 X. Bộ Giáo Luật, điều 884,2.

144 X. Bộ Giáo Luật, điều 883,3.

Scroll to Top