Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

2030828, 1172

Chính trong Hội Thánh, trong sự hiệp thông với tất cả những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội mà Ki-tô hữu chu toàn ơn gọi của mình. Từ Hội Thánh, họ đón nhận Lời Thiên Chúa chứa đựng các đạo lý của “Luật Đức Ki-tô.”75 Từ Hội Thánh, họ lãnh nhận ân sủng của các bí tích nâng đỡ họ trên “đường.” Từ Hội Thánh, họ học mẫu gương của sự thánh thiện; họ nhận ra hình ảnh và nguồn mạch của sự thánh thiện này nơi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh, phân định ra sự thánh thiện này qua chứng từ chân chính của những người đang sống theo sự thánh thiện; họ khám phá sự thánh thiện này trong truyền thống linh đạo và trong lịch sử lâu dài của các Thánh, những vị đã đi trước họ và phụng vụ đang mừng kính các ngài theo chu kỳ các Thánh.

20311368

Đời sống luân lý là một việc phụng tự thiêng liêng. “Chúng ta dâng hiến thân xác mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa”,76 trong Thân Thể Đức Ki-tô mà chúng ta họp thành, và trong sự hiệp thông với hiến lễ Thánh Thể của Người. Trong phụng vụ và trong việc cử hành các bí tích, lời cầu nguyện và đạo lý được kết hợp với ân sủng của Đức Ki-tô, để soi sáng và nuôi dưỡng cách hành động của Ki-tô hữu. Cũng như toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, đời sống luân lý gặp được nguồn mạch và tột đỉnh của mình trong Hy lễ Thánh Thể.

I. Đời sống luân lý và Huấn quyền của Hội Thánh (2032-2040) [85-87; 888-892]

20322246, 2420

Hội Thánh, là “cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1 Tm 3,15), “đã lãnh nhận từ các Tông Đồ mệnh lệnh long trọng của Đức Ki-tô là phải loan báo chân lý cứu độ.”77 “Hội Thánh phải loan báo các nguyên tắc luân lý trong mọi thời và ở mọi nơi, kể cả những nguyên tắc về trật tự xã hội, cũng như phải phán đoán về tất cả các thực tại nhân sinh, trong mức độ mà các quyền căn bản của con người hay việc cứu độ của các linh hồn đòi hỏi.”78

203384

Huấn quyền của các mục tử Hội Thánh về vấn đề luân lý thường được thực thi trong việc dạy giáo lý và giảng dạy, với sự trợ giúp của các công trình của các nhà thần học và các tác giả linh đạo. Như vậy, từ đời nọ đến đời kia, dưới sự hướng dẫn và cảnh giác của các mục tử, “kho tàng” luân lý Ki-tô Giáo được lưu truyền, kho tàng đó là một tổng hợp đặc trưng các quy luật, các mệnh lệnh và các nhân đức phát xuất từ đức tin vào Đức Ki-tô và được ban sự sống bởi đức mến. Một cách theo truyền thống, việc dạy giáo lý này lấy Mười Điều Răn, cùng với Tín biểu và kinh Lạy Cha, làm nền tảng, vì Mười Điều Răn loan báo những nguyên tắc của đời sống luân lý, hữu hiệu cho tất cả mọi người.

2034

Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, với tư cách là “những thầy dạy đích thực, nghĩa là những người giảng dạy bằng quyền bính của Đức Ki-tô, rao giảng cho dân được trao phó cho các ngài, những điều phải tin và phải áp dụng vào cách ăn nết ở.”79 Huấn quyền thông thường và phổ quát của Đức Giáo Hoàng và các Giám mục hiệp thông với ngài, dạy các tín hữu chân lý phải tin, đức mến phải thực thi, vinh phúc phải trông cậy.

2035

Cấp độ tối thượng của việc tham dự vào quyền bính của Đức Ki-tô được bảo đảm bởi đặc sủng là ơn bất khả ngộ. “Kho tàng mặc khải thần linh trải rộng bao nhiêu, thì ơn này trải rộng bấy nhiêu”;80 ơn này cũng trải rộng tới tất cả các yếu tố của đạo lý, trong đó có đạo lý về luân lý, nếu không có những yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không thể được bảo toàn, trình bày hay tuân giữ.81

20361960

Quyền bính của Huấn quyền cũng trải rộng đến các mệnh lệnh đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì việc tuân giữ các mệnh lệnh đó, do Đấng Tạo hóa đòi hỏi, là cần thiết để được cứu độ. Khi nhắc lại các quy định của luật tự nhiên, Huấn quyền của Hội Thánh thực thi phần chính yếu của nhiệm vụ tiên tri của mình, là loan báo cho mọi người họ thật sự là gì, và nhắc nhở họ phải là gì trước mặt Thiên Chúa.82

20372041

Luật của Thiên Chúa, được ký thác cho Hội Thánh, với tính cách là con đường của sự sống và của chân lý, được trao cho các tín hữu. Vì vậy, các tín hữu có quyền83 được giáo huấn về các mệnh lệnh cứu độ của Thiên Chúa, chúng thanh luyện trí phán đoán và nhờ ân sủng, chữa lành lý trí con người đã bị tổn thương. Các tín hữu có nghĩa vụ tuân giữ các hiến chế và sắc lệnh do quyền bính hợp pháp của Hội Thánh công bố. Những quyết định này, mặc dầu mang tính kỷ luật, vẫn đòi sự mau mắn vâng phục trong đức mến.

20382442

Trong việc giảng dạy và áp dụng luân lý Ki-tô Giáo, Hội Thánh cần đến sự tận tâm của các mục tử, kiến thức của các nhà thần học và sự đóng góp của mọi Ki-tô hữu và mọi người thiện chí. Đức tin và việc thực hành Tin Mừng đem lại cho mỗi người một kinh nghiệm về đời sống “trong Đức Ki-tô”, kinh nghiệm này soi sáng cho họ và giúp họ có khả năng đánh giá những thực tại thần linh và nhân linh theo Thần Khí của Thiên Chúa.84 Như vậy, Chúa Thánh Thần có thể dùng những kẻ thấp hèn nhất, để soi sáng cho những người thông thái và những người có chức phận cao trọng hơn.

20391783

Các thừa tác vụ phải được thực thi trong tinh thần phục vụ huynh đệ và tận tụy đối với Hội Thánh, nhân danh Chúa.85 Đồng thời khi đưa ra phán đoán luân lý về các hành vi cá vị của mình, lương tâm của mỗi người phải tránh đừng khép kín trong sự quan tâm cá nhân. Hết sức có thể, phải cố gắng tự mở rộng để quan tâm đến lợi ích của mọi người, như được trình bày trong luật luân lý tự nhiên và được mặc khải, và tiếp đó trong luật Hội Thánh và trong đạo lý đích thực của Huấn quyền về các vấn đề luân lý. Không được đối nghịch lương tâm cá vị và lý trí với luật luân lý hay với Huấn quyền của Hội Thánh.

2040167

Như vậy, giữa các Ki-tô hữu, một tinh thần con thảo đích thực đối với Hội Thánh có thể tăng trưởng. Tinh thần đó là sự triển nở bình thường của ân sủng Phép Rửa, ân sủng này đã sinh chúng ta vào trong lòng Hội Thánh và làm cho chúng ta trở nên những chi thể của Thân Thể Đức Ki-tô. Hội Thánh, với sự quan tâm từ mẫu của mình, ban cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót này vượt trên mọi tội lỗi của chúng ta, và hành động một cách đặc biệt trong bí tích Hòa Giải. Hội Thánh, như một người mẹ ân cần, cũng rộng ban cho chúng ta mỗi ngày, trong phụng vụ của mình, lương thực là Lời và Thánh Thể của Chúa.

II. Các điều răn của Hội Thánh (2041-2043)

2041

Các điều răn của Hội Thánh được đặt trong đường hướng một đời sống luân lý gắn liền với đời sống phụng vụ và được đời sống phụng vụ nuôi dưỡng. Tính cách bắt buộc của các luật thiết định này được công bố bởi các quyền bính mục vụ, có mục đích cung cấp cho các tín hữu mức tối thiểu rất cần thiết về tinh thần cầu nguyện và về nỗ lực luân lý, để gia tăng lòng mến Chúa yêu người.

20421389, 2180, 1457, 1389

Điều răn thứ nhất (“Vào các Chúa nhật và các ngày lễ buộc, các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ và tránh những công việc nô dịch”) đòi các tín hữu thánh hóa ngày tưởng niệm cuộc phục sinh của Chúa, cũng như những lễ phụng vụ chính để tôn kính các mầu nhiệm của Chúa, của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a diễm phúc và của các Thánh, trước hết bằng việc tham dự cuộc cử hành bí tích Thánh Thể, trong đó cộng đoàn Ki-tô hữu được quy tụ, và tránh không làm những việc lao động và những việc tự bản chất có thể cản trở việc thánh hóa những ngày đó.86

Điều răn thứ hai (“Xưng tội trong một năm ít là một lần”) bảo đảm việc chuẩn bị rước Thánh Thể bằng việc lãnh nhận bí tích Hòa Giải, nối tiếp công việc hối cải và tha thứ của bí tích Rửa Tội.87

Điều răn thứ ba (“Rước Mình Thánh Chúa ít là một lần trong mùa Phục Sinh”) bảo đảm mức tối thiểu trong việc rước Mình và Máu Thánh Chúa, được liên kết với các lễ trong mùa Phục Sinh, vì Phục Sinh là nguồn gốc và là trung tâm của phụng vụ Ki-tô Giáo.88

20432177, 1387, 1438, 1351

Điều răn thứ tư (“Kiêng thịt và giữ chay trong những ngày thống hối do Hội Thánh quy định) bảo đảm thời gian khổ chế và thống hối để chuẩn bị cho chúng ta mừng các lễ phụng vụ, và giúp chúng ta làm chủ được các bản năng và đạt tới sự tự do của trái tim.89

Điều răn thứ năm (“Đóng góp cho các nhu cầu của Hội Thánh”) dạy các tín hữu có bổn phận đóng góp cho các nhu cầu vật chất của Hội Thánh, mỗi người tùy theo khả năng của mình.90

III. Đời sống luân lý và chứng từ truyền giáo (2044-2046)

2044852, 905

Lòng trung thành của những người đã lãnh Phép Rửa là điều kiện tiên quyết đối với việc loan báo Tin Mừng và đối với sứ vụ của Hội Thánh trong trần gian. Để tỏ cho mọi người thấy sức mạnh của nó về chân lý và sự rạng ngời, sứ điệp cứu độ phải được chứng thực bằng chứng từ của đời sống các Ki-tô hữu. “Chính chứng từ của đời sống Ki-tô hữu và các việc tốt lành được thực thi với tinh thần siêu nhiên, có sức mạnh lôi kéo người ta đến với đức tin và đến với Thiên Chúa.”91

2045753, 828

Bởi vì là các chi thể của Thân Thể mà Đức Ki-tô là Đầu,92 các Ki-tô hữu góp phần vào việc xây dựng Hội Thánh bằng sự kiên trì trong xác tín của mình và trong đời sống luân lý của mình. Hội Thánh được tăng số, lớn lên và triển nở bằng sự thánh thiện của các tín hữu của mình,93 cho tới khi chính họ làm thành “con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,13).

2046671, 2819

Bằng đời sống theo Đức Ki-tô của mình, các Ki-tô hữu làm cho Nước Thiên Chúa mau đến, đó là “Nước của công bằng, của tình yêu và của bình an.”94 Nhưng không vì thế mà họ xao lãng nhiệm vụ trần thế của mình; chính họ, trung thành với Thầy mình, chu toàn nhiệm vụ đó với sự ngay thẳng, với sự nhẫn nại và với tình yêu.

Tóm lược (2047-2051)

2047

Đời sống luân lý là một việc phụng tự thiêng liêng. Cách hành động của Ki-tô hữu được nuôi dưỡng trong phụng vụ và trong việc cử hành các bí tích.

2048

Các điều răn của Hội Thánh liên quan đến đời sống luân lý và Ki-tô Giáo, gắn liền với đời sống phụng vụ, và được đời sống phụng vụ nuôi dưỡng.

2049

Huấn quyền của các mục tử Hội Thánh về vấn đề luân lý thường được thực thi trong việc dạy giáo lý và giảng dạy, dựa trên nền tảng Mười Điều Răn, vì Mười Điều Răn loan báo những nguyên tắc của đời sống luân lý, hữu hiệu cho tất cả mọi người.

2050

Đức Giáo Hoàng và các Giám mục, với tư cách là những thầy dạy đích thực, rao giảng cho dân Thiên Chúa những điều phải tin và phải áp dụng vào cách ăn nết ở. Các ngài cũng có quyền phán đoán về các vấn đề luân lý trong lãnh vực của luật tự nhiên và của lý trí.

2051

Ơn bất khả ngộ của Huấn quyền của các mục tử trải rộng tới tất cả các yếu tố của đạo lý, trong đó có đạo lý về luân lý, nếu không có những yếu tố này, các chân lý cứu độ của đức tin sẽ không thể được bảo toàn, trình bày hay tuân giữ.


Chú thích

75 X. Gl 6,2.

76 X. Rm 12,1.

77 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 17: AAS 57 (1965) 21.

78 Bộ Giáo Luật, điều 747,2.

79 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 25: AAS 57 (1965) 29.

80 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 25: AAS 57 (1965) 30.

81 X. Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Mysterium Ecclesiae, 3: AAS 65 (1973) 401.

82 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Dignitatis humanae, 14: AAS 58 (1966) 940.

83 X. Bộ Giáo Luật, điều 213.

84 X.1 Cr 2,10-15.

85 X. Rm 12,8.11.

86 X. Bộ Giáo Luật, các điều 1246-1248; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 880,3. 881,1.2.4.

87 X. Bộ Giáo Luật, điều 989; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 719.

88 X. Bộ Giáo Luật, điều 920; Bộ Giáo Luật Đông phương, các điều 708.881,3.

89 X. Bộ Giáo Luật, các điều 1249-1251; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 882.

90 X. Bộ Giáo Luật, điều 222; Bộ Giáo Luật Đông phương, điều 25; x. Bộ Giáo Luật, điều 455.

91 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 6: AAS 58 (1966) 842.

92 X. Ep 1,22.

93 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 39: AAS 57 (1095) 44.

94 Lễ trọng Chúa Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ, Kinh Tiền tụng: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 381.

Scroll to Top