Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

173030

Thiên Chúa đã tạo dựng con người có lý trí, khi ban cho họ phẩm giá của một ngôi vị, có khả năng khởi xướng và điều khiển các hành vi của mình. “Thiên Chúa đã muốn con người ‘tự quyết định lấy’ (Hc 15,14), để chính họ tự nguyện tìm kiếm Đấng Tạo hóa của mình và tự do đạt tới sự hoàn hảo sung mãn và hạnh phúc bằng việc kết hợp với Ngài.”29

“Con người có lý trí, và do đó giống như Thiên Chúa; con người được dựng nên có tự do trong sự quyết định và có quyền trên chính mình.”30

I. Sự tự do và trách nhiệm (1731-1738)

17311721

Tự do là khả năng, bắt nguồn từ lý trí và ý chí, có thể hành động hay không hành động, có thể làm việc này hoặc việc khác, và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Nhờ có ý chí tự do, mỗi người tự quyết định về chính bản thân mình. Trong con người, sự tự do là một sức mạnh để tăng trưởng và trưởng thành trong chân lý và điều thiện. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo, khi nó được quy hướng về Thiên Chúa, là vinh phúc của chúng ta.

1732396, 1849, 2006

Bao lâu sự tự do chưa được xác định cách vĩnh viễn nơi sự thiện tối thượng, là Thiên Chúa, thì nó vẫn còn có khả năng lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu, nghĩa là có thể tiến tới sự trọn hảo hoặc có thể sai lỗi và phạm tội. Tự do là nét đặc trưng của các hành vi nhân linh. Tự do là nguồn mạch để được ca tụng hoặc bị khiển trách, nguồn mạch của công trạng hoặc tội trạng.

17331803

Ai càng làm điều tốt, người đó càng trở nên tự do. Không có tự do đích thực nếu không phục vụ điều thiện và chân lý. Chọn sự bất tuân và điều xấu, là lạm dụng tự do và sự lựa chọn này đưa chúng ta vào vòng nô lệ tội lỗi.31

17341036, 1804

Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo mức độ các hành vi này do chính họ muốn. Sự tiến tới về nhân đức, sự nhận biết điều thiện và sự khổ chế làm gia tăng việc làm chủ của ý chí đối với các hành vi của mình.

1735597

Việc quy tội và trách nhiệm của một hành động nào đó có thể được giảm thiểu và thậm chí được loại bỏ vì lý do không biết, không chú ý, do áp lực, do sợ hãi, do thói quen, do quá gắn bó, và do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội.

17362568

Mọi hành vi được muốn cách trực tiếp đều quy trách nhiệm về tác giả hành vi đó:

Chẳng hạn, Chúa hỏi ông A-đam sau khi ông phạm tội trong vườn địa đàng: “Ngươi đã làm gì thế?” (St 3,13). Cũng một cách đó, Chúa hỏi ông Ca-in.32 Tiên tri Na-than cũng hỏi như vậy với vua Đa-vít sau khi vua phạm tội ngoại tình với vợ ông U-ri-gia và ra lệnh giết ông này.33

Một hành vi có thể là chủ ý cách gián tiếp, khi nó là hậu quả của sự chểnh mảng đối với điều phải biết hay phải làm, thí dụ gây ra một tai nạn vì không biết luật giao thông.

17372263

Một hậu quả, do tác giả không chủ ý gây nên, có thể được dung thứ; thí dụ người mẹ bị kiệt sức vì chăm sóc đứa con đau yếu. Một hậu quả xấu sẽ không bị quy tội, nếu nó không phải là mục đích hay phương tiện của một hành động cố ý, thí dụ một người bị thiệt mạng vì cứu người đang gặp nguy hiểm. Để một hậu quả xấu bị quy tội, hậu quả này phải có thể được thấy trước, và tác giả có khả năng tránh được hậu quả đó, thí dụ trường hợp làm chết người do lái xe trong tình trạng say rượu.

17382106, 2109

Sự tự do được thực thi trong các tương quan giữa người với người. Mỗi nhân vị, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, có quyền tự nhiên được công nhận như một hữu thể tự do và có trách nhiệm. Mọi người có bổn phận tôn trọng quyền đó của mỗi người. Quyền sử dụng sự tự do là một đòi hỏi không thể tách biệt khỏi phẩm giá của nhân vị, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo.34 Quyền này phải được luật dân sự công nhận và bảo vệ trong các giới hạn của công ích và trật tự công cộng chính đáng.35

II. Sự tự do của con người trong Nhiệm cục cứu độ (1739-1742)

1739387, 401

Sự tự do và tội lỗi. Sự tự do của con người thì có giới hạn và có thể lầm lạc. Quả thật, con người đã sa ngã. Con người đã phạm tội cách tự do. Khi từ chối kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, con người đã tự lừa dối mình; và trở thành nô lệ của tội lỗi. Sự tha hóa đầu tiên này đã sinh ra nhiều sự tha hóa khác. Lịch sử nhân loại, ngay từ những lúc khởi đầu, làm chứng rằng những tai họa và áp bức đã phát sinh từ trái tim con người, như hậu quả của việc sử dụng sai sự tự do.

17402108, 1887

Những nguy hiểm đe dọa sự tự do. Việc thực thi sự tự do không bao hàm quyền được nói mọi sự và làm mọi sự. Thật là sai lầm khi cho rằng “con người, một chủ thể của tự do, là một cá nhân tự đủ cho mình, và mục tiêu tối hậu của cá nhân đó, là thỏa mãn các sở thích của mình bằng cách hưởng thụ các của cải trần thế.”36 Ngoài ra, những điều kiện về trật tự kinh tế và xã hội, chính trị và văn hóa phải có để thực thi tự do cách chính đáng, rất thường không được biết tới và bị vi phạm. Những tình trạng đen tối và bất công này làm băng hoại đời sống luân lý và cám dỗ kẻ mạnh cũng như người yếu phạm tội nghịch đức bác ái. Con người, khi tách biệt mình khỏi luật luân lý, làm tổn thương sự tự do riêng của mình, tự trói buộc mình, cắt đứt tình huynh đệ với đồng loại và nổi loạn chống lại chân lý thần linh.

1741782

Sự giải thoát và cứu độ. Đức Ki-tô, nhờ thập giá vinh quang của Người, đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Người cứu chuộc họ khỏi tội lỗi đang cầm giữ họ làm nô lệ. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1). Trong Người, chúng ta được hiệp thông với chân lý giải thoát chúng ta.37 Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta và như thánh Tông Đồ dạy: “Ở đâu có Thần Khí của Chúa thì ở đó có tự do” (2 Cr 3,17). Ngay bây giờ, chúng ta được vinh dự về sự tự do của con cái Thiên Chúa.38

17422002, 1784

Sự tự do và ân sủng. Ân sủng của Đức Ki-tô không hề đối nghịch với sự tự do của chúng ta, khi sự tự do này phù hợp với ý nghĩa của chân lý và điều thiện mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim con người. Trái lại, như kinh nghiệm Ki-tô Giáo chứng tỏ nhất là trong việc cầu nguyện, chúng ta càng ngoan ngoãn đối với những thúc đẩy của ân sủng, thì càng được gia tăng sự tự do nội tâm của chúng ta và sự vững vàng của chúng ta trong các thử thách, cũng như trước những áp lực và cưỡng bách của thế giới bên ngoài. Bằng tác động của ân sủng, Chúa Thánh Thần giáo dục chúng ta về sự tự do thiêng liêng, để làm cho chúng ta trở thành những cộng sự viên tự nguyện cho công trình của Ngài trong Hội Thánh và trong trần gian:

“Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu,
xin đẩy xa những gì cản bước tiến của chúng con trên đường về với Chúa,
để một khi xác hồn thanh thản,
chúng con được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa.”39

Tóm lược (1743-1748)

1743

“Thiên Chúa đã muốn con người tự quyết định lấy” (Hc 15,14) để họ có thể tự nguyện gắn bó với Đấng Tạo hóa của mình và như vậy, có thể đạt tới vinh phúc hoàn hảo.40

1744

Sự tự do là khả năng để hành động hay không hành động và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo khi nó được quy hướng về Thiên Chúa là sự thiện tối thượng.

1745

Tự do là nét đặc trưng của các hành vi nhân linh. Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi mình chủ ý làm. Hành động chủ ý thuộc về chính tác giả.

1746

Việc quy tội và trách nhiệm của một hành động nào đó có thể được giảm thiểu hay được loại bỏ vì lý do không biết, do áp lực, do sợ hãi, và do các nguyên nhân khác về tâm thần hoặc xã hội.

1747

Quyền sử dụng sự tự do là một đòi hỏi không thể tách biệt khỏi phẩm giá của nhân vị, đặc biệt trong lãnh vực tôn giáo và luân lý. Nhưng việc thực thi sự tự do không bao hàm quyền tiên quyết được làm mọi sự hoặc nói mọi sự.

1748

“Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1).


Chú thích

29 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 17: AAS 58 (1966) 1037.

30 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 4, 3: SC 100,424 (PG 7,983).

31 X. Rm 6,17.

32 X. St 4,10.

33 X. 2 Sm 12,7-15.

34 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 2: AAS 58 (1966) 930-931.

35 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 7: AAS 58 (1966) 934-935.

36 Thánh bộ Giáo lý Đức Tin, Huấn thị Libertatis conscientia, 13: AAS 79 (1987) 559.

37 X. Ga 8,32.

38 X. Rm 8,21.

39 Chúa Nhật XXXII Mùa thường niên, Lời nguyện nhập lễ : Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 371.

40 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 17: AAS 58 (1966) 1037.

Scroll to Top