Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

I. Đức Ki-tô – Lời duy nhất của Thánh Kinh (101-104)

101

Thiên Chúa, trong sự hạ cố do lòng nhân hậu của Ngài, để tự mặc khải cho loài người, đã dùng ngôn ngữ phàm nhân mà nói với họ: “Các lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, đã trở nên tương tự với lời nói loài người, cũng như khi xưa Lời của Chúa Cha vĩnh cửu đã mặc lấy xác thịt yếu đuối của loài người, đã trở nên giống như loài người.”68

10265, 2763, 426-429

Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói một Lời, là (Ngôi) Lời duy nhất của Ngài. Trong Ngôi Lời, Thiên Chúa bày tỏ tất cả về chính mình Ngài:69

“Anh em hãy nhớ rằng một Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải ra trong toàn bộ Thánh Kinh, một Lời duy nhất vang trên môi miệng của các Thánh. Lời này lúc khởi đầu là Thiên Chúa hướng về Thiên Chúa, lúc ấy Lời không có các âm vận, bởi vì Ngài không lệ thuộc thời gian.”70

1031100, 1184, 1378

Vì lý do đó, Hội Thánh đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thân Thể [Mình Thánh] Chúa. Hội Thánh không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Thân Thể [Mình Thánh] Chúa Ki-tô mà trao ban cho các tín hữu.71

104

Hội Thánh không ngừng tìm thấy lương thực và sức mạnh cho mình trong Thánh Kinh,72 vì nơi đó, Hội Thánh không chỉ tiếp nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa.73 “Quả thật, trong các sách thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp con cái và trò chuyện với họ.”74

II. Linh hứng và chân lý Thánh Kinh (105-108)

105

Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh. “Những gì Thiên Chúa mặc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.”

“Thật vậy, Hội Thánh, Mẹ thánh chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là sách thánh và được ghi vào bản thư quy Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, các sách ấy có tác giả là chính Thiên Chúa và được truyền lại cho chính Hội Thánh với tư cách đó.”75

106

Thiên Chúa đã linh hứng cho các tác giả phàm nhân viết ra các sách thánh. “Để viết ra các sách thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong tài năng và sức lực của họ, để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thật tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó thôi.”76

107702

Các sách được linh hứng giảng dạy sự thật. “Vì phải xem mọi lời tác giả được linh hứng, tức các thánh sử, viết ra, là những điều Chúa Thánh Thần xác quyết, nên phải tuyên xưng rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại nhằm cứu độ chúng ta.”77

108

Tuy nhiên, đức tin Ki-tô Giáo không phải là một “tôn giáo của Sách vở.” Ki-tô Giáo là tôn giáo của “Lời” Thiên Chúa: Lời đó “không phải là lời được viết ra và câm lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và sống động.”78 Cần thiết là phải có Đức Ki-tô, Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa hằng sống, nhờ Chúa Thánh Thần, mở trí cho chúng ta, thì chúng ta mới hiểu được Thánh Kinh,79 nếu không thì các sách đó chỉ là văn tự chết.

III. Chúa Thánh Thần, Đấng giải thích Thánh Kinh (109-119)

109

Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với con người theo cách thức loài người. Vì vậy, để giải thích Thánh Kinh cho đúng, phải cẩn thận tìm hiểu điều các tác giả phàm nhân thật sự có ý khẳng định và điều Thiên Chúa muốn tỏ bày cho chúng ta qua lời lẽ của các ngài.80

110

Để thấy được ý của các vị thánh sử, cần lưu ý đến các điều kiện về thời đại và văn hóa của các ngài, đến các “văn thể” được dùng trong thời đó, đến cách cảm nghĩ, nói năng và tường thuật, thường được dùng vào thời đại của thánh sử. “Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác.”81

111

Nhưng bởi vì Thánh Kinh được linh hứng, nên có một nguyên tắc khác để giải thích cho đúng. Nguyên tắc này không kém quan trọng so với nguyên tắc trên và nếu không có nguyên tắc này thì Thánh Kinh chỉ là văn tự chết: “Bởi vì Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, thì cũng phải được đọc và giải thích nhờ chính Thánh Thần.”82 Công đồng Va-ti-ca-nô II đưa ra ba tiêu chuẩn để giải thích Thánh Kinh theo Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng Thánh Kinh:83

112128, 368

1. Phải hết sức chú ý đến “nội dung và sự duy nhất của toàn bộ Thánh Kinh”. Mặc dầu các sách hợp thành bộ Thánh Kinh có khác biệt nhau mấy đi nữa, Thánh Kinh vẫn là một, bởi kế hoạch của Thiên Chúa chỉ có một và Đức Ki-tô Giê-su là trung tâm và trái tim của kế hoạch ấy, một trái tim đã rộng mở sau cuộc Vượt Qua của Người.84

“Hình ảnh ‘Trái tim Đức Ki-tô’85 được hiểu về Thánh Kinh, vì Thánh Kinh bộc lộ trái tim của Người. Trước cuộc khổ nạn, trái tim này còn đóng kín, bởi vì Thánh Kinh còn tối nghĩa. Nhưng sau cuộc khổ nạn, Thánh Kinh đã được mở ra, bởi vì từ lúc đó những ai hiểu Thánh Kinh sẽ biết suy xét và phân định các sấm ngôn phải được giải thích như thế nào.”86

11381

2. Phải đọc Thánh Kinh trong “Thánh Truyền sống động của Hội Thánh”. Theo châm ngôn của các Giáo phụ, Thánh Kinh được viết chủ yếu trên trái tim của Hội Thánh hơn là trên những vật liệu thể chất.87 Thật vậy, Hội Thánh lưu giữ ký ức sống động về Lời Thiên Chúa trong Thánh Truyền của mình, và Chúa Thánh Thần ban cho Hội Thánh khả năng giải thích Thánh Kinh theo cách thiêng liêng (“theo nghĩa thiêng liêng mà Chúa Thánh Thần ban cho Hội Thánh”88 ).

11490

3. Phải chú ý đến “tính tương hợp của đức tin”89 . Thuật ngữ “tính tương hợp của đức tin” có nghĩa là sự liên hệ hài hòa giữa các chân lý đức tin với nhau và trong toàn bộ chương trình mặc khải.

Các nghĩa của Thánh Kinh (115-119)

115

Theo một truyền thống cổ xưa, có thể phân biệt hai nghĩa của Thánh Kinh: nghĩa văn tựnghĩa thiêng liêng. Nghĩa thiêng liêng lại được chia thành nghĩa ẩn dụ, nghĩa luân lý và nghĩa dẫn đường. Sự hòa hợp sâu xa của bốn nghĩa này đem lại cho việc đọc Thánh Kinh cách sống động trong Hội Thánh tất cả sự phong phú của nó.

116110-114

Nghĩa văn tự: Đây là nghĩa được các lời của Thánh Kinh nói lên và được khoa chú giải nhận ra dựa trên những quy tắc giải thích đúng đắn. “Tất cả các nghĩa của Thánh Kinh đều đặt nền tảng trên nghĩa văn tự.”90

1171101

Nghĩa thiêng liêng: Vì tính thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả những sự việc và biến cố được bản văn nói tới, đều có thể là những dấu chỉ.

1. Nghĩa ẩn dụ: Chúng ta có thể hiểu biết các biến cố một cách sâu xa hơn khi nhận ra ý nghĩa của chúng trong Đức Ki-tô. Thí dụ cuộc vượt qua Biển Đỏ là dấu chỉ cuộc chiến thắng của Đức Ki-tô, và do đó cũng là dấu chỉ của bí tích Rửa Tội.91

2. Nghĩa luân lý: Các biến cố được Thánh Kinh thuật lại phải dẫn đưa chúng ta đến hành động chính trực. Các biến cố đó được viết ra “để răn dạy chúng ta” (1 Cr 10,11).92

3. Nghĩa dẫn đường: Chúng ta cũng có thể nhìn các sự việc và các biến cố trong ý nghĩa vĩnh cửu của chúng, theo nghĩa chúng dẫn đường (tiếng Hy-lạp: anagoge, nghĩa là dẫn đường) cho chúng ta về Quê trời. Thí dụ Hội Thánh nơi trần thế là dấu chỉ Giê-ru-sa-lem thiên quốc.93

118

Có một câu thơ thời Trung Cổ tóm tắt bốn nghĩa ấy như sau: “Nghĩa văn tự dạy về biến cố, nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin, nghĩa luân lý dạy điều phải làm, nghĩa dẫn đường dạy điều phải vươn tới.”94

11994, 113

“Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà cố gắng hiểu thấu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, ngõ hầu nhờ sự học hỏi có thể gọi là chuẩn bị đó, phán quyết của Hội Thánh được chín chắn. Quả vậy, mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải lệ thuộc vào phán quyết của Hội Thánh, vì Hội Thánh đã nhận từ Thiên Chúa mệnh lệnh và nhiệm vụ gìn giữ và giải thích Lời Thiên Chúa.”95

“Tôi sẽ không tin Tin Mừng, nếu không có quyền bính của Hội Thánh Công Giáo thúc đẩy tôi.”96

IV. Thư quy các Sách Thánh (120-130)

1201117

Truyền Thống các Tông Đồ giúp Hội Thánh phân định những văn bản nào phải được kể vào danh mục các Sách Thánh.97 Danh mục đầy đủ này được gọi là “Thư quy” Thánh Kinh. Thánh Kinh gồm 46 bản văn Cựu Ước (hoặc 45, nếu gom Giê-rê-mi-aAi Ca thành một) và 27 bản văn Tân Ước.98 Đó là:

Phần Cựu Ước gồm các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số, Đệ Nhị Luật, Giô-suê, Thủ Lãnh, Rút, Sa-mu-en 1 và 2, Các Vua 1 và 2, Sử Biên Niên 1 và 2, Ét-ra và Nơ-khe-mi-a, Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ét-te, Ma-ca-bê 1 và 2, Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca, I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ai Ca, Ba-rúc, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en, Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi.

Phần Tân Ước gồm các sách: Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, Tin Mừng theo Thánh Gio-an, Sách Công vụ Tông Đồ, Thư gửi tín hữu Rô-ma, Thư 1 và 2 gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thư gửi tín hữu Ga-lát, Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, Thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, Thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, Thư 1 và 2 gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, Thư 1 và 2 gửi ông Ti-mô-thê, Thư gửi ông Ti-tô, Thư gửi ông Phi-lê-môn, Thư gửi tín hữu Do-thái, Thư của Thánh Gia-cô-bê, Thư 1 và 2 của Thánh Phê-rô, Thư 1, 2 và 3 của Thánh Gio-an, Thư của Thánh Giu-đa, Sách Khải Huyền.

Cựu Ước (121-123)

1211093

Cựu Ước là một phần không thể thiếu được của Thánh Kinh. Tất cả các tác phẩm của Cựu Ước được Thiên Chúa linh hứng nên có một giá trị trường tồn,99 bởi vì Giao Ước cũ không hề bị thu hồi.

122702, 763, 708, 2568

Thật vậy, “Nhiệm cục Cựu Ước được bố trí với mục đích chính yếu là để chuẩn bị cho ngày quang lâm của Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Độ muôn loài.” Các sách Cựu Ước, “tuy có nhiều bất toàn và tạm bợ”, vẫn làm chứng về phương pháp giáo dục của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa: các sách ấy “diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài, một khoa khôn ngoan hữu ích về đời sống con người, và những kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu; sau cùng, trong đó ẩn chứa mầu nhiệm ơn cứu độ chúng ta.”100

123

Các Ki-tô hữu tôn kính Cựu Ước với tính cách Lời đích thực của Thiên Chúa. Hội Thánh luôn cực lực chống lại ý kiến đòi gạt bỏ Cựu Ước, viện cớ là Tân Ước đã làm cho Cựu Ước ra lỗi thời (chủ thuyết Marcion).

Tân Ước (124-127)

124

“Trong các sách Tân Ước, Lời Thiên Chúa là quyền năng của Thiên Chúa để cứu rỗi mọi tín hữu, được trình bày và biểu dương sức mạnh cách trổi vượt.”101 Các sách ấy trao cho chúng ta chân lý tối hậu được Thiên Chúa mặc khải. Đối tượng trung tâm của Tân Ước là Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa nhập thể, các việc làm và giáo huấn của Người, cuộc khổ nạn và việc tôn vinh Người, cũng như những bước đầu của Hội Thánh Người dưới tác động của Chúa Thánh Thần.102

125515

Các sách Tin Mừng là tâm điểm của tất cả các sách Thánh Kinh “vì là chứng tích chính yếu về đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Chuộc chúng ta.”103

12676

Trong việc hình thành các sách Tin Mừng, người ta có thể phân biệt ba giai đoạn:

1. Cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giê-su. Hội Thánh quả quyết cách mạnh mẽ rằng bốn sách Tin Mừng “mà Hội Thánh không ngần ngại khẳng định lịch sử tính, trung thành lưu truyền những gì Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, thật sự đã làm và đã dạy nhằm phần rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Người được đưa lên trời.”

2. Giáo huấn truyền khẩu. “Thật vậy, sau khi Chúa lên trời, các Tông Đồ đã truyền lại cho những người nghe những điều Người đã nói và đã làm với sự thông hiểu đầy đủ hơn mà chính các ngài có nhờ học được từ các biến cố vinh hiển của Chúa Ki-tô và nhờ ánh sáng Thần chân lý dạy dỗ.”

3. Các sách Tin Mừng. “Vậy các thánh sử đã viết bốn sách Tin Mừng: các ngài chọn một số trong nhiều điều đã được truyền lại bằng miệng hay đã được chép ra rồi, tóm tắt hoặc giải thích một số điều tùy theo tình trạng của các Giáo hội, sau cùng các ngài vẫn giữ hình thức lời giảng, mà bao giờ cũng nhằm truyền đạt cho chúng ta những điều xác thực và chân thành về Chúa Giê-su.”104

1271154, 2705

Bốn sách Tin Mừng giữ một địa vị độc nhất trong Hội Thánh, như có thể thấy được qua lòng tôn kính mà phụng vụ dành cho Tin Mừng và qua sức thu hút không gì sánh bằng của Tin Mừng đối với các Thánh trong mọi thời đại.

“Không có giáo lý nào cao trọng hơn, tốt hơn, quý hơn và sáng chói hơn bản văn Tin Mừng. Anh chị em hãy xem và hãy ghi nhớ những gì Chúa và Thầy của chúng ta là Đức Ki-tô đã giảng dạy bằng lời nói và thực hiện bằng gương sáng của Người.”105

“Trên hết mọi sự, chính Tin Mừng nuôi dưỡng tôi trong các kinh nguyện của tôi; nơi Tin Mừng tôi gặp được tất cả những gì cần thiết cho linh hồn hèn mọn của tôi. Trong đó tôi luôn khám phá ra những ánh sáng mới, những ý nghĩa còn ẩn giấu và huyền nhiệm.”106

Tính thống nhất giữa Cựu và Tân Ước (128-130)

1281094, 489

Ngay từ thời các Tông Đồ107 rồi sau đó trong suốt Truyền Thống của mình, Hội Thánh luôn làm sáng tỏ tính thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa trong hai Giao Ước nhờ cách đọc tiên trưng (per typologiam). Cách đọc này nhận ra trong các công trình của Thiên Chúa dưới thời Cựu Ước những “hình ảnh báo trước” điều Thiên Chúa sẽ thực hiện lúc thời gian đến hồi viên mãn, nơi Người Con nhập thể của Ngài.

129681, 2055, 1968

Do đó, các Ki-tô hữu đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Đức Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại. Cách đọc tiên trưng này làm tỏ hiện nội dung vô tận của Cựu Ước. Tuy nhiên, không được quên rằng Cựu Ước vẫn có giá trị riêng của nó trong mặc khải, mà chính Chúa chúng ta đã xác nhận.108 Đàng khác, Tân Ước cũng cần phải được đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Việc dạy giáo lý Ki-tô Giáo thời sơ khai đã luôn trở về với Cựu Ước.109 Theo một châm ngôn cổ, Tân Ước được ẩn tàng trong Cựu Ước, còn Cựu Ước được tỏ bày trong Tân Ước: “cái Mới tiềm ẩn trong cái Cũ, còn cái Cũ xuất hiện trong cái Mới.”110

130

Cách đọc tiên trưng cho thấy tính năng động hướng tới việc hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa, lúc “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Như vậy, thí dụ, việc kêu gọi các tổ phụ và cuộc Xuất Hành khỏi Ai-cập vẫn không mất đi giá trị riêng của chúng trong kế hoạch của Thiên Chúa, mặc dầu đồng thời, chúng là những giai đoạn trung gian trong kế hoạch ấy.

V. Thánh Kinh trong đời sống Hội Thánh (131-133)

131

“Trong Lời Thiên Chúa, có năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Hội Thánh, còn đối với con cái Hội Thánh thì thành sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn, nguồn sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng.”111 Vì vậy, “lối vào Thánh Kinh cần phải được rộng mở cho các Ki-tô hữu.”112

13294

“Việc nghiên cứu Thánh Kinh phải là như linh hồn của khoa Thần học. Nhờ chính lời Thánh Kinh này, thừa tác vụ Lời Chúa, gồm có việc giảng thuyết của các vị chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Ki-tô Giáo, trong đó bài diễn giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được nuôi dưỡng lành mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện.”113

1332653, 1792

Hội Thánh “nhiệt liệt và đặc biệt khuyến khích mọi Ki-tô hữu… học được ‘mối lợi tuyệt vời, là được biết Chúa Giê-su Ki-tô’ (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh. ‘Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô’.”114

Tóm lược (134-141)

134

Toàn bộ Thánh Kinh là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy nhất ấy chính là Chúa Ki-tô, “bởi vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Ki-tô và toàn bộ Thánh Kinh được hoàn tất trong Chúa Ki-tô.”115

135

“Thánh Kinh chứa đựng Lời Thiên Chúa và vì được linh hứng nên thật sự là Lời Thiên Chúa.”116

136

Thiên Chúa là Tác giả của Thánh Kinh vì Ngài linh hứng các tác giả phàm nhân; chính Ngài hành động trong họ và nhờ họ. Như vậy, Ngài bảo đảm rằng các tác phẩm của họ giảng dạy chân lý cứu độ một cách không sai lầm.117

137

Việc giải thích các Sách Thánh đã được linh hứng trước hết phải đạt đến điều Thiên Chúa muốn mặc khải qua các thánh sử, để cứu độ chúng ta. Điều gì đến từ Chúa Thánh Thần, chỉ được hiểu cách đầy đủ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần.118

138

Hội Thánh lãnh nhận và tôn kính 46 sách của Cựu Ước và 27 sách của Tân Ước, với tính cách là những sách được linh hứng.

139

Bốn sách Tin Mừng giữ một vị trí trung tâm, vì Chúa Ki-tô Giê-su là tâm điểm của các sách đó.

140

Tính thống nhất của hai Giao Ước bắt nguồn từ sự duy nhất của kế hoạch và mặc khải của Thiên Chúa. Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước, còn Tân Ước làm hoàn thành Cựu Ước; cảø hai soi sáng cho nhau, cả hai đều thật sự là Lời Thiên Chúa.

141

“Hội Thánh đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thân Thể [Mình Thánh] Chúa”:119 cả hai nuôi dưỡng và chi phối toàn bộ đời sống Ki-tô hữu. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).120


Chú thích

68 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 13: AAS 58 (1966) 824.

69 X. Dt 1,1-3.

70 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 103, 4, 1: CCL 40,1521 (PL 37,1378).

71 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827.

72 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.

73 X. 1 Tx 2,13.

74 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827-828.

75 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 822-823.

76 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.

77 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.

78 Thánh Bê-na-đô Clairvaux, Homilia super “Missus est”, 4, 11: Opera, ed. J. Leclercq-H. Rochais, v. 4 (Romae 1966) 57.

79 X. Lc 24,45.

80 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823.

81 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823.

82 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

83 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

84 X. Lc 24,25-27.44-46.

85 X. Tv 22,15.

86 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Expositio in Psalmos, 21, 11: Opera omnia, v. 18 (Parisiis 1876) 350.

87 X. Thánh Hi-la-ri-ô, Liber ad Constantium Imperatorem 9: CSEL 65,204 (PL 10,570); Thánh Giêrônimô, Commentarius in epistulam ad Galatas 1, 1, 11-12: PL 26,347.

88 Ôrigiênê, Homiliae in Leviticum, 5, 5: SC 286,228 (PG 12,454).

89 X. Rm 12,6.

90 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I, q.1, a.10, ad 1: Ed. Leon. 4, 25.

91 X. 1 Cr 10,2.

92 X. Dt 3-4,11.

93 X. Kh 21,1-22,5.

94 Augustinô de Dacia, Rotulus pugillaris I: ed. A.Walz: Angelicum 6 (1929) 256.

95 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

96 Thánh Augustinô, Contra epistulam Manichaei quam vocant fundamenti, 5, 6: CSEL 25,197 (PL 42,176).

97 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821.

98 X. Decretum Damasi: DS 179-180; CĐ Florentinô, Decretum pro lacobitis: DS 1334-1336; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 4a, Decretum de Libris Sacris et de traditionibus recipiendis: DS 1501-1504.

99 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 14: AAS 58 (1966) 825.

100 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 15: AAS 58 (1966) 825.

101 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 17: AAS 58 (1966) 826.

102 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 20: AAS 58 (1966) 827.

103 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 18: AAS 58 (1966) 826.

104 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 19: AAS 58 (1966) 826-827.

105 Thánh Xê-daia Juniô, Epistula ad Richildam et Radegundem: SC 345,480.

106 Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, Manuscrit A, 83v: Manuscrits autobiographiques (Paris 1992) 268.

107 X. 1 Cr 10,6.11; Dt 10,1; 1 Pr 3,21.

108 X. Mc 12,29-31.

109 X. 1 Cr 5,6-8; 10,1-11.

110 Thánh Augustinô, Quaestiones in Heptateucum, 2, 73; CCL 33,106 (PL 34,623); X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 16: AAS 58 (1966) 825.

111 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 828.

112 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 22: AAS 58 (1966) 828.

113 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.

114 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 25: AAS 58 (1966) 829; X. Thánh Hiêrônimô, Commentarii in Isaiam, Lời Tựa: CCL 73,1 (PL 24,17).

115 Hugo de Sancto Victore, De Arca Noe, 2, 8: PL 176,642; x. Ibid. 2, 9: PL 176,642-643.

116 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 24: AAS 58 (1966) 829.

117 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 11: AAS 58 (1966) 822-823.

118 X. Ôrigiênê, Homiliae in Exodum, 4, 5: SC 321,128 (PG 12,320).

119 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 21: AAS 58 (1966) 827.

120 X. Is 50,4.

Scroll to Top