Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

“Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).

“Người hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).

Chính Chúa Giê-su cũng nhấn mạnh về “điều răn này của Thiên Chúa.”1 Thánh Tông Đồ Phao-lô dạy: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3).2

21971897

Điều răn thứ tư mở đầu bảng hai của Mười Điều Răn. Điều răn này nêu lên trật tự của đức mến. Thiên Chúa muốn rằng, sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ, là những vị chúng ta phải chịu ơn về sự sống, và là những vị đã lưu truyền cho chúng ta sự nhận biết Thiên Chúa. Chúng ta cũng buộc phải tôn kính tất cả những người được Thiên Chúa trao ban quyền bính của Ngài để mưu ích cho chúng ta.

21982419

Điều răn này được diễn tả bằng hình thức tích cực về những bổn phận phải chu toàn. Điều răn này loan báo những điều răn tiếp theo, liên quan đến việc phải tôn trọng cách đặc biệt sự sống, hôn nhân, của cải trần thế và lời nói. Điều răn này thiết lập một trong những nền tảng cho giáo huấn xã hội của Hội Thánh.

2199

Điều răn thứ tư rõ rệt nhắm đến con cái, trong tương quan của họ với cha và mẹ họ, bởi vì đây là tương quan phổ quát nhất. Điều răn này cũng liên quan tới các quan hệ họ hàng giữa các thành viên trong gia tộc, đòi chúng ta phải tôn kính, mến yêu và biết ơn ông bà tổ tiên. Cuối cùng, điều răn này còn mở rộng tới các bổn phận của học trò đối với thầy cô, thợ với chủ, kẻ thuộc cấp đối với người chỉ huy, công dân đối với tổ quốc, và với tất cả những người điều hành, cai trị đất nước.

Điều răn này bao hàm và hiểu ngầm những bổn phận của cha mẹ, người giám hộ, thầy cô, người lãnh đạo, các nguyên thủ, các nhà cầm quyền, nghĩa là tất cả những ai đang thực thi quyền bính trên người khác hay trên một cộng đồng các nhân vị.

22002304

Sự tuân phục điều răn thứ tư có kèm theo phần thưởng: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ để được sống lâu trên đất mà Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).3 Việc tuân giữ điều răn này đem lại, cùng với những hoa trái thiêng liêng, những lợi ích trần thế là sự an bình và thịnh vượng. Ngược lại, việc không tuân giữ điều răn này sẽ gây nhiều thiệt hại lớn lao cho các cộng đồng và các nhân vị.

I. Gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa (2201-2206)
Bản chất của gia đình (2201-2203)

22011625

Cộng đồng phu phụ được thiết lập do sự ưng thuận của đôi phối ngẫu. Hôn nhân và gia đình được sắp xếp hướng về thiện ích của đôi phối ngẫu, về việc sinh sản và giáo dục con cái. Tình yêu của đôi phối ngẫu và việc sinh sản con cái tạo ra những tương quan cá vị và những trách nhiệm hàng đầu, giữa các phần tử trong gia đình.

22021882

Người nam và người nữ kết hợp với nhau trong hôn nhân, cùng với con cái họ, tạo thành một gia đình. Thể chế này đi trước mọi công nhận của công quyền; hơn nữa công quyền phải nhìn nhận thể chế này. Gia đình sẽ được coi như điểm quy chiếu thông thường căn cứ theo đó mà đánh giá các hình thức khác của liên hệ gia tộc.

2203369

Khi tạo dựng người nam và người nữ, Thiên Chúa đã thiết lập gia đình con người và đặt nền tảng căn bản cho gia đình. Các phần tử trong gia đình là những nhân vị bình đẳng về phẩm giá. Vì công ích của các phần tử trong gia đình và của xã hội, gia đình có những trách nhiệm, quyền lợi và bổn phận đa dạng.

Gia đình Ki-tô Giáo (2204-2206) [1655-1658]

2204533

“Gia đình Ki-tô Giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh, vì lẽ đó… phải được gọi là một ‘Hội Thánh tại gia’.”4 Gia đình Ki-tô Giáo là một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến; gia đình có một tầm quan trọng độc đáo trong Hội Thánh, như thấy rõ trong Tân Ước.5

22051702

Gia đình Ki-tô Giáo là sự hiệp thông giữa các nhân vị, là dấu vết và hình ảnh của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Hoạt động sinh sản và giáo dục của gia đình là phản ánh công trình tạo dựng của Chúa Cha. Gia đình được kêu gọi tham dự vào việc cầu nguyện và hy lễ của Đức Ki-tô. Việc cầu nguyện hằng ngày và việc đọc Lời Chúa củng cố gia đình trong đức mến. Gia đình Ki-tô Giáo có sứ vụ loan báo Tin Mừng và truyền giáo.

2206

Các tương quan trong gia đình mang lại sự đồng cảm về cảm xúc, tình cảm, và tình nghĩa, chủ yếu phát xuất từ sự tôn trọng lẫn nhau giữa các nhân vị. Gia đình là một cộng đồng ưu việt được kêu gọi để thực hiện một kế hoạch chung của đôi phối ngẫu và sự cộng tác chu đáo của cha mẹ trong việc giáo dục con cái.6

II. Gia đình và xã hội (2207-2213)

22071880, 372, 1603

Gia đình là tế bào nguyên thủy của đời sống xã hội. Gia đình là một xã hội tự nhiên, trong đó, người nam và người nữ được kêu gọi trao tặng bản thân mình trong tình yêu và trong việc trao tặng sự sống. Quyền bính, sự bền vững và sự sống của các tương quan trong gia đình làm nên các nền tảng cho sự tự do, sự an toàn và tình huynh đệ trong xã hội. Gia đình là một cộng đồng, trong đó, từ thời thơ ấu, con người có thể học được những giá trị luân lý, bắt đầu tôn thờ Thiên Chúa và sử dụng sự tự do một cách đúng đắn. Đời sống gia đình là khởi điểm của đời sống xã hội.

2208

Gia đình phải sống thế nào để các thành viên của gia đình học biết quan tâm và biết đảm nhận việc chăm sóc những người trẻ và những người già, người đau yếu, người khuyết tật và người nghèo khổ. Nhiều gia đình nhiều khi không có khả năng mang lại sự trợ giúp này. Lúc đó, việc cung cấp những nhu cầu này thuộc về những người khác, những gia đình khác và, theo nguyên tắc bổ trợ, thuộc về xã hội: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian” (Gc 1,27).

22091883

Gia đình phải được giúp đỡ và bảo vệ bằng những biện pháp xã hội thích hợp. Nơi nào các gia đình không đủ khả năng chu toàn các nhiệm vụ của mình, thì các tổ chức xã hội khác có bổn phận trợ giúp các gia đình đó và nâng đỡ thể chế gia đình. Theo nguyên tắc bổ trợ, những cộng đồng lớn hơn phải lưu ý để không tiếm quyền các gia đình đó, cũng không xen vào đời sống của họ.

2210

Tầm quan trọng của gia đình đối với đời sống và sự an sinh của xã hội7 bao hàm trách nhiệm đặc biệt của xã hội trong việc nâng đỡ và củng cố hôn nhân và gia đình. Chính quyền dân sự phải coi đây là một bổn phận quan trọng, là “nhận biết, bảo vệ và củng cố phẩm chất đích thực của hôn nhân và gia đình, là bảo vệ nền luân lý công cộng, và cổ võ sự thịnh vượng của gia đình.”8

2211

Cộng đồng chính trị có bổn phận tôn trọng, trợ giúp và nhất là bảo đảm cho gia đình có được các quyền sau đây:

— Quyền tự do lập gia đình, quyền sinh con cái và giáo dục chúng theo những xác tín luân lý và tôn giáo của mình;

— Quyền bảo toàn sự vững bền của dây liên kết phu phụ và thể chế gia đình;

— Quyền tự do tuyên xưng đức tin, lưu truyền và giáo dục đức tin cho con cái bằng những phương tiện và thể chế cần thiết;

— Quyền tư hữu, tự do kinh doanh, có việc làm, có nhà ở, quyền di cư;

— Quyền được chăm sóc y tế, trợ cấp tuổi già, phụ cấp gia đình, theo thể chế của quốc gia;

— Quyền được bảo vệ về an ninh và cuộc sống lành mạnh, nhất là tránh các nguy cơ như xì ke ma túy, sự khiêu dâm, thói nghiện rượu, v.v…;

— Quyền tự do liên kết với các gia đình khác để lập các hiệp hội và như thế, được có đại diện trước các quyền bính dân sự.9

2212225, 1931

Điều răn thứ tư làm sáng tỏ các tương quan khác trong xã hội: Anh chị em ruột, là con cái của cha mẹ chúng ta; anh chị em họ, là con cháu của tổ tiên chúng ta; đồng bào là con cái của tổ quốc chúng ta; những người đã chịu Phép Rửa là con cái của Mẹ chúng ta là Hội Thánh; mỗi nhân vị là con trai hoặc con gái của Đấng muốn chúng ta gọi Ngài là “Cha chúng con.” Vì vậy, các tương quan của chúng ta với tha nhân được nhận biết như là những tương quan nhân vị. Người lân cận không phải là một “cá thể” nào đó giữa tập thể nhân loại, nhưng là “một ai đó”, có nguồn gốc rõ ràng, đáng được mọi người quan tâm và tôn trọng.

22131939

Các cộng đồng nhân loại do các cá vị họp lại mà thành. Việc quản trị tốt các cộng đồng này không chỉ giới hạn trong việc bảo đảm các quyền, và việc chu toàn các bổn phận, mà cả sự trung tín với các khế ước. Những tương quan công bằng giữa chủ với thợ, giữa nhà cầm quyền với các công dân, giả thiết phải có lòng nhân hậu tự nhiên xứng hợp với phẩm giá của các nhân vị, là những người quan tâm đến sự công bằng và tình huynh đệ.

III. Bổn phận của các phần tử trong gia đình (2214-2231)
Bổn phận của con cái (2214-2220)

22141858

Tình phụ tử thần linh là nguồn mạch của tình phụ tử nhân loại;10 chính tình phụ tử đó đặt nền tảng cho việc tôn kính cha mẹ. Lòng tôn kính của con cái, còn nhỏ hay đã trưởng thành, đối với cha và mẹ mình11 được nuôi dưỡng bằng tình cảm tự nhiên xuất phát từ mối dây kết hợp họ. Lòng tôn kính đó được đòi buộc bởi một điều răn của Thiên Chúa.12

2215

Lòng tôn kính cha mẹ (lòng hiếu thảo) dựa trên sự biết ơn đối với những người, bằng việc trao ban sự sống, bằng tình yêu và công lao của mình, đã sinh ra các con cái mình, giúp chúng có khả năng lớn lên về tuổi tác, về sự khôn ngoan và ân sủng. “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7,27-28).

2216532

Lòng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoãn và vâng phục chân thành. “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ; lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai… Những lời đó sẽ hướng dẫn con lúc con tới lui, sẽ giữ gìn con khi con nằm xuống, sẽ cùng con chuyện trò khi con thức dậy” (Cn 6,20-22). “Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời sửa dạy” (Cn 13,1).

22171831

Bao lâu còn chung sống với cha mẹ, con cái phải tuân giữ mọi điều cha mẹ dạy liên quan đến lợi ích bản thân hoặc của gia đình. “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20).13 Con cái cũng phải vâng theo những lời dạy bảo hữu lý của những người giáo dục chúng, và của những người cha mẹ đã giao phó chúng cho họ chăm sóc. Nhưng nếu người con theo lương tâm, thấy vâng theo một lệnh truyền nào đó là làm điều xấu về mặt luân lý, thì không được vâng lời.

Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ. Con cái phải biết đón trước những điều cha mẹ mong muốn, sẵn sàng hỏi ý kiến và đón nhận những lời khuyên bảo chính đáng của cha mẹ. Sự vâng lời của con cái đối với cha mẹ ngưng khi con cái không còn sống chung với cha mẹ nữa, nhưng lòng tôn kính thì không như thế, mà phải tồn tại luôn mãi. Thật ra, lòng tôn kính này có gốc rễ từ lòng kính sợ Thiên Chúa, là một trong các hồng ân của Chúa Thánh Thần.

2218

Điều răn thứ tư còn nhắc cho những người con, khi đã trưởng thành, nhớ các trách nhiệm của họ đối với cha mẹ. Con cái phải trợ giúp cho cha mẹ về vật chất và tinh thần, bao nhiêu có thể, trong những năm tháng của tuổi già, hoặc suốt thời gian bệnh tật, cô đơn hoặc túng thiếu. Chúa Giê-su nhắc lại bổn phận biết ơn này.14

“Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3,2-6).

“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người… Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Chúa nguyền rủa” (Hc 3,12-13.16).

2219

Lòng hiếu thảo củng cố sự hài hòa trong toàn bộ đời sống gia đình, ảnh hưởng cả đến các tương quan giữa anh chị em. Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ làm rạng rỡ bầu khí gia đình. “Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái là chính người cha” (Cn 17,6). “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2).

2220

Các Ki-tô hữu còn phải biết ơn đặc biệt những ai đã giúp mình lãnh nhận hồng ân đức tin, ân sủng bí tích Rửa Tội và sự sống trong Hội Thánh. Những người này có thể là cha mẹ, những phần tử khác của gia đình, ông bà, các vị mục tử, các giáo lý viên, thầy cô giáo hay bạn bè. “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lôít, bà ngoại anh, nơi bà Êunikê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2 Tm 1,5).

Bổn phận của cha mẹ (2221-2231)

22211653

Sự phong phú của tình yêu phu phụ không chỉ giới hạn ở việc sinh sản con cái, mà còn phải mở rộng đến cả việc giáo dục luân lý và đào tạo thiêng liêng cho con cái. “Nhiệm vụ của cha mẹ trong việc giáo dục hết sức quan trọng đến nỗi, nếu thiếu, chắc chắn là không gì thay thế được.”15 Quyền và bổn phận giáo dục con cái là quyền và bổn phận hàng đầu và bất khả nhượng của cha mẹ.16

2222494

Cha mẹ phải xem con cái của mình như những người con của Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị. Họ phải dạy cho con cái biết chu toàn Luật Thiên Chúa, bằng cách cho con cái thấy chính họ cũng vâng phục thánh ý Cha trên trời.

2223

Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái. Họ thể hiện trách nhiệm này trước hết trong việc xây dựng gia đình, trong đó, tình âu yếm, lòng tha thứ, sự tôn trọng lẫn nhau, lòng chung thủy và sự phục vụ vô vị lợi phải là những chuẩn mực. Gia đình là nơi thích hợp cho việc giáo dục các nhân đức. Việc giáo dục này đòi phải tập bỏ mình, tập phán đoán lành mạnh, tập tự chủ, là những điều kiện để có sự tự do đích thực. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết “đặt những gì là vật chất và tự nhiên phụ thuộc những gì thuộc nội tâm và tinh thần.”17 Cha mẹ có trách nhiệm quan trọng là phải nêu gương tốt cho con cái. Khi biết nhìn nhận những thiếu sót của mình trước mặt con cái, cha mẹ có uy tín hơn để hướng dẫn và sửa dạy con cái:

“Thương con thì cho roi cho vọt… Ai biết giáo dục con sẽ được thỏa lòng về con” (Hc 30,1-2).

“Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy thay mặt Chúa giáo dục chúng bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,4).

22241939

Gia đình là môi trường tự nhiên để khai tâm cho nhân vị về tình liên đới và về các trách nhiệm trong cộng đồng. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết giữ mình khỏi những nguy hiểm và những sa đọa đang đe dọa xã hội loài người.

22251656

Nhờ ân sủng của bí tích Hôn Phối, cha mẹ nhận trách nhiệm và đặc ân loan báo Tin Mừng cho con cái. Cha mẹ khai tâm cho con cái về các mầu nhiệm đức tin ngay từ lúc đầu đời, chính họ là “những sứ giả đầu tiên”18 của đức tin đối với con cái mình. Lúc chúng còn thơ ấu, cha mẹ phải cho con cái hòa nhập vào đời sống của Hội Thánh. Cách sống của gia đình có thể nuôi dưỡng những tâm tình tốt đẹp, những tâm tình đó vẫn luôn là sự chuẩn bị và sự nâng đỡ đích thực cho đức tin sống động trong suốt cuộc đời.

22262179

Việc giáo dục đức tin cho con cái phải được cha mẹ bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ của chúng. Việc giáo dục này đã khởi đầu, khi các phần tử trong gia đình giúp nhau lớn lên trong đức tin, nhờ chứng từ của một đời sống Ki-tô hữu theo Tin Mừng. Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, đồng hành và làm phong phú các hình thức khác của việc giáo dục đức tin. Cha mẹ có sứ vụ dạy con cái cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa.19 Giáo xứ là cộng đồng Thánh Thể và là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Ki-tô Giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cho con cái và cho cha mẹ chúng.

22272013

Về phần mình, con cái cũng làm cho cha mẹ chúng tăng trưởng trong sự thánh thiện.20 Mọi người và mỗi người phải biết quảng đại và luôn sẵn sàng tha thứ cho nhau khi gặp những xúc phạm, gây gỗ, bất công và bỏ rơi. Tình yêu thương lẫn nhau gợi lên điều đó. Tình yêu đối với Đức Ki-tô đòi buộc điều đó.21

2228

Khi con cái còn nhỏ, sự tôn trọng và yêu thương của cha mẹ được biểu lộ trước hết qua việc chăm sóc và lưu tâm nhằm dạy dỗ con cái mình, để đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của chúng. Khi chúng lớn lên, cũng vẫn sự tôn trọng và tận tụy đó thúc đẩy cha mẹ giáo dục con cái để chúng biết sử dụng lý trí và sự tự do của mình một cách đúng đắn.

2229

Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái, nên có quyền lựa chọn cho con cái một trường học đáp ứng được những xác tín riêng của mình. Quyền này là một quyền căn bản. Cha mẹ có bổn phận, bao nhiêu có thể, lựa chọn những trường học nào giúp mình cách tốt nhất, để chu toàn nhiệm vụ của mình là nhà giáo dục Ki-tô Giáo.22 Công quyền có bổn phận bảo đảm quyền này của các bậc cha mẹ và tạo những điều kiện thực tế để cha mẹ thực thi quyền đó.

22301625

Khi đến tuổi trưởng thành, con cái có bổn phận và có quyền lựa chọn nghề nghiệp và bậc sống của mình. Con cái đảm nhận những trách nhiệm mới trong tương quan đầy tin tưởng đối với cha mẹ, sẵn sàng bàn hỏi và đón nhận các ý kiến và lời khuyên của cha mẹ. Cha mẹ phải lưu ý để không ép buộc con cái trong việc chọn nghề nghiệp hoặc chọn bạn trăm năm. Bổn phận giữ sự chừng mực này không ngăn cản họ – mà trái lại – trong việc trợ giúp con cái bằng những lời khuyên khôn ngoan, nhất là khi con cái có ý định lập gia đình.

2231

Có những người không lập gia đình, để đảm nhận việc chăm sóc cha mẹ hoặc anh chị em mình, hoặc để dồn hết tâm trí vào một nghề nghiệp hay vì những động lực cao đẹp khác. Họ có thể góp phần lớn lao vào lợi ích của gia đình nhân loại.

IV. Gia đình và Nước Trời (2232-2233)

22321618

Các mối liên hệ trong gia đình dù quan trọng, nhưng không phải tuyệt đối. Cũng như đứa trẻ tăng trưởng trong sự trưởng thành và sự tự lập về mặt nhân bản và thiêng liêng, thì cũng vậy, ơn gọi riêng của nó, ơn gọi đến từ Thiên Chúa, cũng được khẳng định một cách rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn. Cha mẹ phải tôn trọng ơn gọi này và khuyến khích con cái đáp trả bằng việc đi theo ơn gọi đó. Phải xác tín rằng ơn gọi thứ nhất của Ki-tô hữu là đi theo Chúa Giê-su23 . “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai, con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).

2233542

Trở thành môn đệ Chúa Giê-su là chấp nhận lời mời gọi thuộc về gia đình Thiên Chúa, sống theo cách sống của Người: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).

Cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng, với tâm tình vui mừng và tạ ơn, ơn gọi mà Chúa dành cho một người nào đó trong số con cái mình để đi theo Người trong sự trinh khiết vì Nước Trời, trong đời sống thánh hiến hay trong thừa tác vụ tư tế.

V. Quyền bính trong xã hội dân sự (2234-2246)

22341897

Điều răn thứ tư cũng truyền dạy chúng ta phải tôn trọng tất cả những ai đã đón nhận từ Thiên Chúa một quyền bính trong xã hội để mưu ích cho chúng ta. Điều răn này soi sáng các bổn phận của những người thực thi quyền bính cũng như của cả những người được hưởng phúc lợi của quyền bính.

Bổn phận của quyền bính dân sự (2235-2237)

22351899

Những ai thực thi một quyền bính nào đó, phải thực thi như một việc phục vụ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,26). Việc thực thi quyền bính được quy định về mặt luân lý bởi nguồn gốc thần linh, bản chất hợp lý và đối tượng đặc trưng của nó. Không ai có thể truyền lệnh hay thiết lập điều gì trái với nhân phẩm và luật tự nhiên.

22362411

Việc thực thi quyền bính nhằm biểu lộ trật tự chính đáng của các giá trị giúp mọi người dễ dàng thực thi quyền tự do và trách nhiệm. Cấp trên phải khôn ngoan thực thi sự công bằng phân phối, bằng cách quan tâm đến những nhu cầu và phần đóng góp của mỗi người, và nhằm mưu cầu sự hòa thuận và bình an. Họ phải cảnh giác không để các chuẩn mực và quy định họ thiết lập, đưa đến cơn cám dỗ, là lợi ích cá vị đối nghịch với lợi ích của cộng đồng.24

2237357

Công quyền buộc phải tôn trọng các quyền lợi căn bản của nhân vị. Họ phải thực thi công bằng với lòng nhân đạo, trong khi tôn trọng quyền lợi của từng người, nhất là của các gia đình và của những người cùng khốn.

Các quyền lợi chính trị gắn liền với tư cách công dân, có thể và phải được công nhận theo các đòi hỏi của công ích. Các quyền ấy không thể bị công quyền đình chỉ khi không có lý do hợp pháp và tương xứng. Việc thực thi các quyền lợi chính trị được sắp xếp hướng tới công ích của quốc gia và của cộng đồng nhân loại.

Bổn phận của công dân (2238-2243)

22381900

Những người phục tùng quyền bính phải coi cấp trên của mình như những người đại diện Thiên Chúa, Đấng đã đặt họ làm thừa tác viên phân phát các hồng ân của Ngài:25 “Vì Chúa, anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra… Hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa” (1 Pr 2,13.16). Sự cộng tác trung thành của những người phục tùng quyền bính bao hàm quyền, đôi khi là bổn phận, phải lên tiếng phê phán cách công bằng những gì họ coi là có hại cho phẩm giá của các nhân vị và cho công ích.

22391915, 2310

Bổn phận của các công dân là cộng tác với chính quyền dân sự để mưu ích cho xã hội trong tinh thần tôn trọng chân lý, công bằng, tình liên đới và sự tự do. Lòng yêu mến và sự phục vụ Tổ quốc phát xuất từ bổn phận của sự biết ơn và theo trật tự của đức mến. Việc tùng phục quyền bính hợp pháp và sự phục vụ công ích đòi hỏi các công dân thực thi nhiệm vụ của mình trong đời sống của cộng đồng chính trị.

22402265, 1900

Việc tùng phục quyền bính và tinh thần đồng trách nhiệm đối với công ích đòi hỏi các công dân, về mặt luân lý, phải đóng thuế, thực thi quyền bầu cử và bảo vệ quê hương:

“Anh em nợ ai cái gì, hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7).

Các Ki-tô hữu “cư ngụ trên quê hương riêng của mình, nhưng như những ngoại kiều; họ có chung mọi sự với những người khác, như các công dân, và chịu đựng mọi sự như những lữ khách… Họ tuân theo luật pháp thiết định nhưng cách sống của họ vượt trên luật pháp… Thiên Chúa đã dành cho họ một địa vị cao quý đến độ họ không bỏ đi được.”26

Thánh Tông Đồ cũng khuyến dụ chúng ta phải cầu nguyện và tạ ơn Chúa cho các vua và tất cả những người thực thi quyền bính, “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh” (1 Tm 2,2).

2241

Những quốc gia giàu hơn buộc phải đón nhận, bao nhiêu có thể, những người nước ngoài đến tìm kiếm an ninh và sinh kế mà họ không có được nơi chính quê hương họ. Công quyền phải quan tâm tôn trọng quyền tự nhiên là luật đặt người khách dưới sự che chở của những ai đón nhận họ.

Vì công ích, chính quyền có thể quy định một số điều kiện pháp lý cho quyền nhập cư, nhất là đòi hỏi các người di cư phải tôn trọng các bổn phận đối với quốc gia đón nhận họ. Người nhập cư buộc phải tôn trọng, với lòng biết ơn, di sản vật chất và tinh thần của đất nước đón nhận họ, tuân thủ luật pháp và chia sẻ các nhiệm vụ trong nước đó.

22421903, 2313, 450, 1901

Người công dân bị buộc theo lương tâm, không được tuân theo những chỉ thị của chính quyền dân sự, khi những mệnh lệnh đó đi ngược lại các đòi hỏi trong lãnh vực luân lý, các quyền lợi căn bản của con người hoặc các giáo huấn của Tin Mừng. Sự khước từ vâng phục chính quyền dân sự, khi những đòi hỏi của chính quyền dân sự đi ngược lại những đòi hỏi của lương tâm ngay thẳng, được biện minh bằng việc phải phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29):

“Khi công quyền vượt quá quyền hạn của mình mà đàn áp các công dân, thì chính các công dân đừng từ chối những gì công ích đòi hỏi cách khách quan. Họ được phép bảo vệ các quyền lợi của mình và của đồng bào mình, chống lại sự lạm dụng của quyền bính này, với sự tôn trọng các giới hạn, mà Luật tự nhiên và Luật Tin Mừng đã vạch ra.”27

22432309

Hành động dùng vũ khí chống lại sự áp bức của chính quyền là không hợp pháp, trừ khi đồng thời hội đủ các điều kiện sau đây: 1) Trong trường hợp chắc chắn các quyền lợi căn bản bị vi phạm một cách nghiêm trọng và kéo dài; 2) Sau khi đã dùng hết mọi phương cách khác; 3) Không gây ra những xáo trộn tệ hại hơn; 4) Có đủ cơ sở để hy vọng thành công tốt đẹp. 5) Không thể tiên liệu hợp lý được những giải pháp tốt hơn.

Cộng đồng chính trị và Hội Thánh (2244-2246)

22441910, 1881, 2109

Mọi thể chế đều, ít là cách mặc nhiên, được cảm hứng bởi một tầm nhìn (visio) nào đó về con người và về vận mệnh của con người, từ đó, thể chế rút ra điểm quy chiếu cho các phán đoán của mình, bậc thang các giá trị và quy tắc hành động của mình. Đa số các xã hội xây dựng thể chế của mình dựa trên một sự ưu việt nào đó của con người trên các sự vật. Chỉ có tôn giáo được Thiên Chúa mặc khải, mới nhận biết cách rõ ràng rằng nguồn gốc và vận mệnh của con người ở nơi Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa và Cứu Chuộc. Hội Thánh mời gọi các chính quyền quy chiếu các phán đoán và quyết định của mình theo sự linh hứng của chân lý về Thiên Chúa và về con người.

Các xã hội không biết đến hay khước từ sự linh hứng này, nhân danh sự độc lập của mình đối với Thiên Chúa, đều đi tới chỗ tìm nơi chính mình hay vay mượn ở một ý thức hệ nào đó những điểm quy chiếu và vận mệnh của mình và, vì không chấp nhận cho người ta bảo vệ một tiêu chuẩn khách quan về điều tốt điều xấu, các xã hội ấy tự cho mình một quyền lực độc tài, một cách công khai hoặc ngấm ngầm, đối với con người và vận mệnh con người, như lịch sử đã cho thấy.28

2245912

“Do nhiệm vụ và thẩm quyền của mình, Hội Thánh không hề bị lẫn lộn với một cộng đồng chính trị… Hội Thánh vừa là dấu chỉ, vừa là người bảo vệ tính cách siêu việt của nhân vị.”29 Hội Thánh “tôn trọng và cổ võ sự tự do chính trị và trách nhiệm của các công dân.”30

22462032, 2420

Hội Thánh có sứ vụ “đưa ra phán đoán luân lý, cả trong những vấn đề liên quan tới lãnh vực chính trị, khi các quyền lợi căn bản của con người hay ơn cứu độ các linh hồn đòi hỏi, bằng cách sử dụng mọi phương tiện và chỉ những phương tiện nào phù hợp với Tin Mừng và hòa hợp với lợi ích của mọi người, tùy theo các thời đại và các hoàn cảnh khác nhau.”31

Tóm lược (2247-2257)

2247

“Hãy thờ cha kính mẹ” (Đnl 5,16; Mc 7,10).

2248

Theo điều răn thứ tư, Thiên Chúa muốn rằng, sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ và những người được Ngài trao ban quyền bính để mưu ích cho chúng ta.

2249

Cộng đồng phu phụ được thiết lập trên giao ước và sự ưng thuận của đôi phối ngẫu. Hôn nhân và gia đình được sắp xếp hướng về lợi ích của đôi phối ngẫu, về việc sinh sản và giáo dục con cái.

2250

“Sự an sinh của nhân vị, của xã hội nhân loại và Ki-tô Giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đồng hôn nhân và gia đình.”32

2251

Con cái phải tôn kính, biết ơn, vâng lời chính đáng và trợ giúp cha mẹ. Lòng hiếu thảo của con cái củng cố sự hài hòa của toàn bộ đời sống gia đình.

2252

Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái về đức tin, về việc cầu nguyện và về mọi nhân đức. Bao nhiêu có thể, cha mẹ có bổn phận đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của con cái mình.

2253

Cha mẹ phải tôn trọng và khuyến khích ơn gọi của con cái mình. Họ phải ý thức và dạy cho con cái biết rằng, đi theo Chúa Giê-su, là ơn gọi thứ nhất của Ki-tô hữu.

2254

Công quyền buộc phải tôn trọng các quyền lợi căn bản của nhân vị và các điều kiện để thực thi sự tự do của nhân vị.

2255

Các công dân có bổn phận phải cộng tác với quyền bính dân sự để xây dựng xã hội trong tinh thần tôn trọng chân lý, sự công bằng, tình liên đới và sự tự do.

2256

Theo lương tâm, công dân bắt buộc không được tuân theo các chỉ thị của quyền bính dân sự, khi những mệnh lệnh này đi ngược lại những đòi hỏi thuộc lãnh vực luân lý. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).

2257

Mọi xã hội đều quy chiếu các phán đoán và cách hành động của mình dựa trên một tầm nhìn (visio) nào đó về con người và vận mệnh của con người. Ngoài ánh sáng của Tin Mừng về Thiên Chúa và về con người, các xã hội sẽ dễ trở thành “độc tài.”


Chú thích

1 X. Mc 7,8-13.

2 X. Đnl 5,16.

3 X. Đnl 5,16.

4 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105; x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

5 X. Ep 5,21 – 6,4; Cl 3,18-21; 1 Pr 3,1-7.

6 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.

7 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.

8 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.

9 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 46: AAS 74 (1982) 137-138.

10 X. Ep 3,14.

11 X. Cn 1,8; Tb 4,3-4.

12 X. Xh 20,12.

13 X. Ep 6,1.

14 X. Mc 7,10-12.

15 CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 3: AAS 58 (1966) 731.

16 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris consortio, 36: AAS 74 (1982) 126.

17 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 36: AAS 83 (1991) 838.

18 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. Bộ Giáo Luật, điều 1136.

19 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

20 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1069.

21 X. Mt 18,21-22; Lc 17,4.

22 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 6: AAS 58 (1966) 733.

23 X. Mt 16,25.

24 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 25: AAS 83 (1991) 823.

25 X. Rm 13,1-2.

26 Epistula ad Diognetum, 5, 5; 5, 10; 6, 10: SC 33 62-66 (Funk 1,398-400).

27 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 74: AAS 58 (1966) 1096.

28 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus annus, 45-46: AAS 83 (1991) 849-851.

29 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76: AAS 58 (1966) 1099.

30 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76: AAS 58 (1966) 1099.

31 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 76: AAS 58 (1966) 1100.

32 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 47: AAS 58 (1966) 1067.

Scroll to Top