Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

I. Danh xưng và hình ảnh về Hội Thánh (751-757)

751

“Hội Thánh” trong tiếng La-tinh là Ecclesia (tiếng Hy-lạp là Ekklèsia, Ek-kalein, “gọi ra, triệu tập”) có nghĩa là “một cuộc triệu tập.” Danh từ này được dùng để chỉ một cuộc tập họp dân chúng,124 thông thường mang tính chất tôn giáo. Từ này thường được bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp sử dụng để chỉ việc tập họp dân Chúa chọn trước mặt Thiên Chúa, nhất là cuộc tập họp ở núi Xi-nai khi Ít-ra-en lãnh nhận Lề luật và được Thiên Chúa thiết lập làm dân thánh của Ngài.125 Khi gọi mình là “Ecclesia” (Hội Thánh), cộng đoàn tiên khởi của những người tin vào Đức Ki-tô tự nhận mình là thừa kế của cuộc tập họp dân Chúa trong Cựu Ước. Trong cộng đoàn mới này, Thiên Chúa “triệu tập” dân của Ngài từ khắp cùng cõi đất. Từ “Kyriakè”, từ gốc của “Church” trong tiếng Anh, và “Kirche” trong tiếng Đức, có nghĩa là “điều thuộc về Chúa.”

7521140, 832, 830

Trong ngôn ngữ Ki-tô Giáo, từ Ecclesia (Hội Thánh) dùng để chỉ một cuộc tập họp phụng vụ,126 nhưng cũng để chỉ một cộng đoàn các tín hữu ở một địa phương127 và toàn thể cộng đoàn các tín hữu trên khắp thế giới.128 Ba nghĩa này thật ra không thể tách biệt nhau. “Hội Thánh” là dân được Thiên Chúa quy tụ từ khắp thế gian. Hội Thánh hiện diện trong những cộng đoàn địa phương và trở nên hiện thực trong một cộng đoàn phụng vụ, đặc biệt là cộng đoàn cử hành Thánh Thể. Hội Thánh sống nhờ Lời và Mình Thánh Đức Ki-tô và như vậy, Hội Thánh trở thành Thân Thể Đức Ki-tô.

Các biểu tượng về Hội Thánh (753-757)

753781, 789

Trong Thánh Kinh, chúng ta gặp nhiều hình ảnh và biểu tượng có tương quan mật thiết với nhau, được Mặc Khải dùng để nói về mầu nhiệm khôn lường của Hội Thánh. Các hình ảnh trong Cựu ước đều là những biến thể của một ý tưởng căn bản, ý tưởng về “dân Thiên Chúa.” Trong Tân Ước,129 tất cả những hình ảnh này có một tâm điểm mới là Đức Ki-tô, Đấng trở thành “Đầu” của dân này,130 một dân từ nay là Thân Thể của Người. Chung quanh tâm điểm đó, những hình ảnh được tổng hợp “rút ra hoặc từ đời sống chăn nuôi hay trồng trọt, hoặc từ việc xây dựng, hoặc từ đời sống gia đình và hôn nhân.”131

754857

“Quả thật, Hội Thánh là chuồng chiên mà cửa vào duy nhất và cần thiết của chuồng chiên đó là Đức Ki-tô.132 Hội Thánh cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã tiên báo Ngài sẽ là mục tử của đàn chiên đó,133 và những con chiên của đàn ấy, tuy do các mục tử phàm nhân chăn dắt, nhưng luôn được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi chính Đức Ki-tô, vị Mục tử nhân lành và Thủ lãnh các mục tử,134 Đấng đã hiến mạng sống mình cho các con chiên135 .”136

755795

“Hội Thánh là thửa ruộng, hay cánh đồng của Thiên Chúa.137 Trong cánh đồng đó, mọc lên cây ôliu cổ thụ mà gốc rễ thánh là các Tổ phụ, và nơi cây này, sự giao hòa giữa những người Do-thái và các dân ngoại đã được và sẽ được thực hiện.138 Hội Thánh được Nhà Làm Vườn thiên quốc trồng như một cây nho được tuyển chọn.139 Đức Ki-tô là cây nho thật, ban sức sống và sự sinh sôi nảy nở các ngành, tức là chúng ta, những kẻ được ở trong Người nhờ Hội Thánh, và không có Người, chúng ta không thể làm gì được140 .”141

756797, 857, 1045

“Hội Thánh cũng thường được gọi là tòa nhà của Thiên Chúa.142 Chính Chúa đã tự ví Người như viên đá mà các thợ xây nhà loại bỏ, nhưng đã trở nên viên đá góc tường (Mt 21,42 và ss; Cv 4,11; 1 Pr 2,7; Tv 118,22). Trên nền móng này, Hội Thánh được xây dựng bởi các Tông Đồ143 và nhờ nền móng này Hội Thánh có được sự vững vàng và kết cấu. Tòa nhà này được gọi bằng nhiều tên khác nhau: nhà Thiên Chúa144 nơi gia đình của Ngài cư ngụ, chỗ ở của Thiên Chúa trong Thần Khí,145 lều của Thiên Chúa giữa loài người,146 và nhất là Đền thánh, được tượng trưng bằng các đền thánh bằng đá được các Thánh Giáo phụ ca tụng, và trong phụng vụ được so sánh, một cách không phải vô lý, với Thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới. Quả thật, ở trần gian này, chúng ta như những viên đá sống động được sử dụng để xây nên Thành thánh đó.147 Ông Gio-an đã chiêm ngưỡng Thành thánh đó từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống trong cuộc canh tân trần gian, ‘sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang’ (Kh 21,1-2).”148

757507, 796, 1616

“Hội Thánh cũng được gọi là ‘thành Giê-ru-sa-lem trên trời’, và ‘Mẹ chúng ta’ (Gl 4,26);149 được mô tả như Hiền Thê tinh tuyền của Con Chiên không tì ố,150 được Đức Ki-tô ‘yêu thương và hiến mình để thánh hóa’ (Ep 5,25-26), được Người kết hợp bằng một giao ước bất khả tiêu hủy, và được Người ‘nuôi nấng và chăm sóc’ không ngừng (Ep 5,29).”151

II. Nguồn gốc, nền tảng và sứ vụ của Hội Thánh (758-769)

758257

Để tìm hiểu mầu nhiệm Hội Thánh, trước hết cần phải suy tư về nguồn gốc của Hội Thánh trong kế hoạch của Ba Ngôi Chí Thánh rồi việc Hội Thánh được hình thành dần dần trong lịch sử.

Một kế hoạch xuất phát từ trái tim của Chúa Cha (759)

759293, 1655

“Chúa Cha hằng hữu, bởi kế hoạch hoàn toàn tự do và bí nhiệm do sự khôn ngoan và nhân hậu của Ngài, đã tạo dựng trần gian, đã quyết định nâng người ta lên cho tham dự đời sống thần linh”, Ngài kêu gọi mọi người tới đời sống đó trong Con của Ngài. “Ngài đã quyết định tập họp những người tin vào Đức Ki-tô thành Hội Thánh thánh thiện.” “Gia đình” này “của Thiên Chúa” được thiết lập và từng bước được hình thành qua các giai đoạn của lịch sử nhân loại theo sự an bài của Chúa Cha: Thật vậy, “Hội Thánh đã được hình dung trước, từ lúc khởi đầu trần gian, được chuẩn bị một cách kỳ diệu trong lịch sử dân Ít-ra-en và trong Giao Ước cũ, được thiết lập trong thời đại cuối cùng, được tỏ hiện bằng việc Thần Khí được tuôn đổ, và sẽ được hoàn tất cách vinh hiển vào lúc tận thế.”152

Hội Thánh được hình dung trước, từ lúc khởi đầu trần gian (760)

760294, 309

Các Ki-tô hữu thời sơ khai cho rằng: “Trần gian đã được tạo dựng vì Hội Thánh.”153 Thiên Chúa đã tạo dựng trần gian để trần gian được hiệp thông vào đời sống thần linh của Ngài, sự hiệp thông này được thực hiện qua việc “triệu tập” người ta trong Đức Ki-tô, và “sự triệu tập” này là Hội Thánh. Hội Thánh là mục đích của mọi sự,154 và cả những thăng trầm đau thương, như việc các thiên thần sa ngã và loài người phạm tội, đã chẳng được Thiên Chúa cho phép xảy ra nếu như đó không là cơ hội và phương thế để biểu dương toàn thể sức mạnh của cánh tay Ngài, toàn thể mức độ của tình yêu Ngài muốn dành cho trần gian:

“Quả vậy, cũng như ý muốn của Thiên Chúa là một công trình, và công trình đó có tên là trần gian, thì cũng vậy, ý định của Ngài là cứu độ loài người, và công trình cứu độ ấy có tên là Hội Thánh.”155

Hội Thánh được chuẩn bị trong Giao Ước Cũ (761-762)

76155

Việc tập họp dân Thiên Chúa bắt đầu ngay từ lúc tội lỗi phá hủy sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Việc tập họp Hội Thánh là như sự phản ứng của Thiên Chúa trước cảnh hỗn độn do tội lỗi gây ra. Công cuộc tái hợp âm thầm này được thực hiện giữa lòng tất cả các dân tộc: “Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10,35).156

762122, 522, 60, 64

Việc chuẩn bị xa cho cuộc tập họp dân Thiên Chúa bắt đầu bằng ơn gọi của ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa hứa cho ông trở thành cha tương lai của một dân tộc vĩ đại.157 Việc chuẩn bị gần bắt đầu bằng việc tuyển chọn Ít-ra-en làm dân Thiên Chúa.158 Nhờ việc được tuyển chọn, Ít-ra-en phải là dấu chỉ cuộc tập họp trong tương lai gồm tất cả các dân tộc.159 Nhưng các Tiên tri tố cáo Ít-ra-en đã phản bội Giao ước và đã hành xử như một gái điếm.160 Các ngài loan báo một Giao Ước mới và vĩnh cửu.161 “Giao ước mới này, chính Đức Ki-tô đã thiết lập.”162

Hội Thánh được Đức Ki-tô thiết lập (763-766)

763541

Chúa Con là Đấng thực hiện kế hoạch cứu độ của Chúa Cha vào lúc thời gian đến hồi viên mãn: đó là lý do Người được sai đến.163 “Chúa Giê-su đã khởi đầu Hội Thánh của Người bằng việc rao giảng Tin Mừng, nghĩa là rao giảng Nước Thiên Chúa ngự đến, Nước đã được hứa trong Thánh Kinh từ nhiều thế kỷ.164 Để chu toàn ý Chúa Cha, Đức Ki-tô đã khai mạc Nước Trời nơi trần thế. Hội Thánh là Nước của Đức Ki-tô đã hiện diện trong mầu nhiệm.165

764543, 1691, 2558

“Quả thật, Nước Thiên Chúa sáng tỏ trước mặt mọi người trong lời nói, hành động và sự hiện diện của Đức Ki-tô.”166 Ai đón nhận lời của Chúa Giê-su là đón nhận “chính Nước Thiên Chúa.”167 Mầm mống và điểm khởi đầu của Nước Thiên Chúa là “một đoàn chiên nhỏ bé” (Lc 12,32), gồm những người được Chúa Giê-su đến triệu tập quanh Người và chính Người là mục tử của họ.168 Những người đó họp thành gia đình đích thực của Chúa Giê-su.169 Những ai Người đã quy tụ quanh Người, Người đã dạy cho họ một “cách hành động” mới, và cả một kinh nguyện riêng.170

765610, 551

Chúa Giê-su đã thiết lập cho cộng đoàn của Người một cơ cấu tồn tại cho tới khi Nước Thiên Chúa được hoàn thành trọn vẹn. Trước hết, Người tuyển chọn nhóm Mười Hai với ông Phê-rô làm thủ lãnh.171 Những vị này, đại diện cho mười hai chi tộc Ít-ra-en,172 là những tảng đá nền móng của Giê-ru-sa-lem mới.173 Nhóm Mười Hai174 và các môn đệ khác175 được tham dự vào sứ vụ của Đức Ki-tô, vào quyền năng của Người, và cả số phận của Người.176 Bằng tất cả các hành động này, Đức Ki-tô chuẩn bị và xây dựng Hội Thánh của Người.

766813, 860, 1340, 617, 478

Nhưng Hội Thánh được sinh ra một cách chủ yếu từ việc hiến thân trọn vẹn của Đức Ki-tô để cứu độ chúng ta, việc hiến thân ấy được thể hiện trước trong việc thiết lập bí tích Thánh Thể và được thực hiện trên thập giá. “Sự khởi đầu và tăng trưởng của Hội Thánh được đánh dấu bằng việc máu và nước trào ra từ cạnh sườn rộng mở của Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá.”177 “Chính từ cạnh sườn của Đức Ki-tô yên nghỉ trên thập giá đã phát sinh bí tích kỳ diệu là toàn thể Hội Thánh.”178 Như bà E-và được tạo ra từ cạnh sườn của ông A-đam, thì cũng vậy, Hội Thánh được sinh từ trái tim bị đâm thâu của Đức Ki-tô chết trên thập giá.179

Hội Thánh – được tỏ hiện bởi Chúa Thánh Thần (767-768)

767731, 849

“Vậy sau khi công trình mà Chúa Cha trao cho Chúa Con thực hiện nơi trần thế đã được hoàn tất, thì Chúa Thánh Thần được sai đến vào ngày lễ Ngũ Tuần, để Ngài thánh hóa Hội Thánh một cách liên lỉ.”180 Lúc đó “Hội Thánh được tỏ hiện một cách công khai trước mặt dân chúng, và Tin Mừng bắt đầu được truyền bá cho muôn dân qua việc rao giảng.”181 Bởi vì là “cuộc triệu tập” mọi người đến với ơn cứu độ, nên tự bản chất của mình, Hội Thánh có tính chất thừa sai, được Đức Ki-tô sai đến với mọi dân tộc để làm cho họ thành môn đệ.182

768541

Chúa Thánh Thần “dạy dỗ và hướng dẫn Hội Thánh bằng nhiều hồng ân theo phẩm trật và theo đặc sủng”,183 để Hội Thánh thực hiện sứ vụ của mình. “Từ đó, được trang bị bằng các hồng ân của Đấng Sáng Lập và trong khi trung thành tuân giữ các giới luật của Người về bác ái, khiêm nhường và từ bỏ, Hội Thánh lãnh nhận sứ vụ loan báo và thiết lập Nước của Đức Ki-tô và của Thiên Chúa nơi mọi dân tộc, và tạo thành mầm mống và điểm khởi đầu của Nước này trên trái đất.”184

Hội Thánh – được hoàn tất trong vinh quang (769)

769671, 2818, 675, 1045

“Hội Thánh… sẽ chỉ được hoàn tất trong vinh quang thiên quốc”,185 trong cuộc Ngự đến vinh hiển của Đức Ki-tô. Cho đến ngày đó, “Hội Thánh vẫn tiến bước trên đường lữ thứ giữa những cuộc bách hại của thế gian và những ơn an ủi của Thiên Chúa.”186 Nơi trần thế, Hội Thánh biết mình đang ở chốn lưu đày, đang trên đường lữ thứ xa cách Chúa,187 Hội Thánh khao khát cuộc ngự đến trọn vẹn của Nước Thiên Chúa, khao khát “giờ sẽ được kết hợp cùng Vua của mình trong vinh quang.”188 Sự hoàn tất của Hội Thánh, và qua đó, sự hoàn tất của trần gian trong vinh quang sẽ chỉ xảy ra sau nhiều thử thách lớn lao. Chỉ khi đó “mọi người công chính từ ông A-đam, ‘từ ông A-ben người công chính cho đến người được tuyển chọn cuối cùng’ sẽ được quy tụ trong Hội Thánh phổ quát bên cạnh Chúa Cha.”189

III. Mầu nhiệm Hội Thánh (770-776)

770812

Hội Thánh sống trong lịch sử, nhưng đồng thời siêu việt trên lịch sử. “Chỉ tâm trí được soi sáng bởi đức tin”190 mới có thể nhận ra trong thực tại hữu hình của Hội Thánh một thực tại thiêng liêng mang sự sống thần linh.

Hội Thánh – vừa hữu hình vừa thiêng liêng (771)

771827, 1880, 954

“Đức Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất, đã thiết lập và không ngừng nâng đỡ Hội Thánh của Người, một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến, như một cơ cấu hữu hình nơi trần thế, qua Hội Thánh đó Người ban phát chân lý và ân sủng cho mọi người.” Hội Thánh đồng thời:

– “vừa là một xã hội… có tổ chức theo phẩm trật, vừa là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô”;

– “vừa là một tập thể hữu hình vừa là một cộng đoàn thiêng liêng”;

– “vừa là một Hội Thánh được phong phú bởi những của cải trần thế vừa là một Hội Thánh được phong phú bởi những của cải thiên quốc.”

Các chiều kích trên đồng thời “cấu thành một thực tại phức hợp duy nhất, kết hợp hai yếu tố nhân loại và thần linh”:191

“Hội Thánh có đặc điểm là vừa mang tính nhân loại vừa mang tính thần linh, vừa hữu hình vừa hàm chứa những thực tại vô hình, vừa nhiệt thành trong hành động vừa siêu thoát trong chiêm niệm, vừa hiện diện trong trần gian vừa xa lạ với trần gian; tuy nhiên, trong Hội Thánh, yếu tố nhân loại quy hướng về yếu tố thần linh và tùy thuộc vào đó; yếu tố hữu hình quy hướng về yếu tố vô hình; yếu tố hoạt động quy hướng về yếu tố chiêm niệm, và hiện tại quy hướng về thành đô tương lai mà chúng ta đang tìm kiếm.”192

“Ôi thật khiêm cung! Ôi thật cao trọng! Lều tạm bằng gỗ tùng và thánh điện của Thiên Chúa, lều tạm trần thế và cung điện thiên quốc; ngôi nhà bằng đất sét và lâu đài hoàng gia; thân thể của sự chết và đền thờ của ánh sáng; và sau cùng, đối tượng bị khinh miệt bởi những kẻ kiêu căng, và hiền thê của Đức Ki-tô! Tôi đen nhưng tôi đẹp, hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem: mặc dầu lao động và đau khổ của cuộc lưu đày lâu dài làm nàng xanh xao, nhưng nàng lại được trang điểm bằng vẻ đẹp thiên quốc.”193

Hội Thánh – mầu nhiệm hợp nhất người ta với Thiên Chúa (772-773)

772518, 796

Trong Hội Thánh, Đức Ki-tô hoàn thành và mặc khải mầu nhiệm riêng của Người như mục đích của kế hoạch của Thiên Chúa: “quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,10). Thánh Phao-lô gọi cuộc kết hợp phu phụ của Đức Ki-tô với Hội Thánh là “một mầu nhiệm cao cả” (Ep 5,32). Bởi vì được kết hợp với Đức Ki-tô như với Phu Quân của mình,194 nên chính Hội Thánh cũng trở thành một mầu nhiệm.195 Khi chiêm ngắm mầu nhiệm nơi Hội Thánh, thánh Phao-lô đã thốt lên: “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).

773671, 972

Trong Hội Thánh, sự hiệp thông này giữa người ta với Thiên Chúa nhờ đức mến “không bao giờ mất được” (1 Cr l3,8) là mục đích chi phối tất cả những gì là phương tiện bí tích gắn liền với thế giới đang qua đi này.196 “Toàn bộ cơ cấu của Hội Thánh đều hướng về sự thánh thiện của các chi thể của Đức Ki-tô. Sự thánh thiện ấy lại được xác định theo ‘mầu nhiệm cao cả’, là mầu nhiệm Hiền Thê dùng tặng phẩm tình yêu của riêng mình đáp trả lại tặng phẩm của Đấng Phu Quân.”197 Đức Ma-ri-a trổi vượt tất cả chúng ta về sự thánh thiện, vốn là mầu nhiệm của Hội Thánh, như một Hiền Thê không tỳ ố, không vết nhăn.198 Vì vậy, “chiều kích Ma-ri-a của Hội Thánh trổi vượt trên chiều kích Phê-rô.”199

Hội Thánh – bí tích phổ quát của ơn cứu độ (774-776)

7741075, 515, 2014, 1116

Từ mysterion trong tiếng Hy Lạp được dịch sang tiếng La-tinh bằng hai từ là mysterium (mầu nhiệm) và sacramentum (bí tích). Trong cách giải thích về sau này, từ sacramentum (bí tích) diễn tả dấu chỉ hữu hình của thực tại ẩn giấu của ơn cứu độ, thực tại ẩn giấu đó được diễn tả bằng từ mysterium (mầu nhiệm). Theo nghĩa này, chính Đức Ki-tô là mầu nhiệm của ơn cứu độ: “Mầu nhiệm của Thiên Chúa không là gì khác ngoài Đức Ki-tô.”200 Công trình cứu độ do nhân tính thánh thiện và có sức thánh hóa của Đức Ki-tô thực hiện là bí tích của ơn cứu độ. Bí tích này được biểu lộ và hoạt động trong các bí tích của Hội Thánh (mà các Giáo Hội Đông phương cũng gọi là các “mầu nhiệm thánh”). Bảy bí tích là những dấu chỉ và những dụng cụ Chúa Thánh Thần dùng để tuôn đổ ân sủng của Đức Ki-tô là Đầu, trên Hội Thánh là Thân Thể của Người. Như vậy, Hội Thánh chứa đựng và truyền thông ân sủng vô hình mà mình là dấu chỉ. Trong ý nghĩa loại suy này, chính Hội Thánh được gọi là một “bí tích.”

775360

“Trong Đức Ki-tô, Hội Thánh là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và dụng cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hợp nhất của toàn thể nhân loại”:201 là bí tích của sự kết hợp mật thiết con người với Thiên Chúa: đó là mục đích đầu tiên của Hội Thánh. Bởi vì sự hiệp thông giữa con người bắt rễ trong sự kết hợp với Thiên Chúa, nên Hội Thánh cũng là bí tích của sự hợp nhất của nhân loại. Trong Hội Thánh, sự hợp nhất đó đã bắt đầu, bởi vì Hội Thánh quy tụ những người “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9); đồng thời, Hội Thánh là “dấu chỉ và dụng cụ” để thực hiện trọn vẹn sự hợp nhất này mà cho đến nay vẫn còn phải đạt tới.

7761088

Với tính cách là bí tích, Hội Thánh là dụng cụ của Đức Ki-tô. “Hội Thánh cũng được Đức Ki-tô sử dụng như dụng cụ để cứu chuộc mọi người”,202 “Hội Thánh là bí tích phổ quát của ơn cứu độ”203 qua đó Đức Ki-tô “biểu lộ và đồng thời thực hiện mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.”204 Hội Thánh là “kế hoạch hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại”,205 trong kế hoạch này, Thiên Chúa muốn cho “nhân loại phổ quát họp thành Dân duy nhất của Thiên Chúa, quy tụ thành Thân thể duy nhất của Đức Ki-tô, xây dựng nên một Đền thờ duy nhất của Chúa Thánh Thần.”206

Tóm lược (777-780)

777

Từ Hội Thánh (Ecclesia) có nghĩa gốc là “cuộc triệu tập.” Từ này chỉ sự tập họp những người được Lời Chúa triệu tập, để hợp thành dân Thiên Chúa, và những người này, được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Đức Ki-tô, chính họ trở thành Thân Thể Đức Ki-tô.

778

Hội Thánh vừa là con đường, đồng thời vừa là mục đích của kế hoạch của Thiên Chúa: Được hình dung trước trong công trình tạo dựng, được chuẩn bị trong Cựu Ước, được thành lập do các lời và hành động của Chúa Giê-su Ki-tô, được thực hiện nhờ thập giá cứu chuộc và sự phục sinh của Người, Hội Thánh được làm tỏ hiện như mầu nhiệm cứu độ qua việc tuôn đổ Chúa Thánh Thần. Hội Thánh sẽ được hoàn tất trong vinh quang thiên quốc như cuộc tập họp mọi người được cứu chuộc từ cõi đất.207

779

Hội Thánh vừa hữu hình vừa thiêng liêng, vừa là một xã hội có phẩm trật vừa là thân thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Hội Thánh là duy nhất, được tạo thành bởi hai yếu tố nhân loại và thần linh. Đó là mầu nhiệm Hội Thánh, mầu nhiệm này chỉ có thể được đón nhận bằng đức tin.

780

Trên trần gian này, Hội Thánh là bí tích cứu độ, là dấu chỉ và dụng cụ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người.


Chú thích

124 X. Cv 19,39.

125 X. Xh 19.

126 X. 1 Cr 11,18; 14,19.28.34-35.

127 X. 1 Cr 1,2; 16,1.

128 X. 1 Cr 15,9; Gl 1,13; Plm 3,6.

129 X. Ep 1,22; Cl 1,18.

130 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.

131 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 6: AAS 57 (1965) 8.

132 X. Ga 10,1-10.

133 X. Is 40,11; Ed 34,11-31.

134 X. Ga 10,11; 1 Pr 5,4.

135 X. Ga 10,11-15.

136 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 6: AAS 57 (1965) 8.

137 X. 1 Cr 3,9.

138 X. Rm 11,13-26.

139 X. Mt 21,33-43 và song song; Is 5,1-7.

140 X. Ga 15,1-5.

141 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 6: AAS 57 (1965) 8.

142 X. 1 Cr 3,9.

143 X. 1 Cr 3,11.

144 X. 1 Tm 3,15.

145 X. Ep 2,19-22.

146 X. Kh 21,3.

147 X. 1 Pr 2,5.

148 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 6: AAS 57 (1965) 8-9.

149 X. Kh 12,17.

150 X. Kh 19,7; 21,2.9; 22,17.

151 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 6: AAS 57 (1965) 9.

152 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 5-6.

153 Hermas, Pastor, 8, 1 (Visio 2,4, 1): SC 53,96; x. Aristides, Apologia, 16, 7: BP 11,125; Thánh Giustinô, Apologia 2, 7: CA 1,216-218 (PG 6,456).

154 X. Thánh Êpiphaniô, Panarion 1, 1, 5, Haereses 2, 4: GCS 25,174 (PG 41,181).

155 Thánh Clêmentê thành A-lê-xan-ri-a, Paedagogus, 1, 6, 27, 2: GCS 12,106 (PG 8,281).

156 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 12; Ibid., 13: AAS 57 (1965) 17-18; Ibid., 16: AAS 57 (1965) 20.

157 X. St 12,2; 15,5-6.

158 X. Xh 19,5-6; Đnl 7,6.

159 X. Is 2,2-5; Mk 4,1-4.

160 X. Hs 1; Is 1,2-4; Gr 2; v.v…

161 X. Gr 31,31-34; Is 55,3.

162 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.

163 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6; Id., Sắc lệnh Ad Gentes, 3: AAS 58 (1966) 949.

164 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.

165 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.

166 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.

167 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.

168 X. Mt 10,16; 26,31; Ga 10,1-21.

169 X. Mt 12,49.

170 X. Mt 5-6.

171 X. Mc 3,14-15.

172 X. Mt 19,28; Lc 22,30.

173 X. Kh 21,12-14.

174 X. Mc 6,7.

175 X. Lc 10,1-2.

176 X. Mt 10,25; Ga 15,20.

177 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.

178 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 5: AAS 56 (1964) 99.

179 X. Thánh Ambrôsiô, Expositio evangelii secundum Lucam 2,85-89: CCL 14,69-72 (PL 15,1666-1668).

180 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4: AAS 57 (1965) 6.

181 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes,4: AAS 58 (1966) 950.

182 X. Mt 28,19-20; CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 2: AAS 58 (1966) 948; Ibid., 5-6: AAS 58 (1966) 951-955.

183 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4: AAS 57 (1965) 7.

184 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.

185 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.

186 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 18, 51: CSEL 40/2, 354 (PL 41,614); x. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.

187 X. 2 Cr 5,6; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 6: AAS 57 (1965) 9.

188 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.

189 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 6.

190 Catechismus Romanus, 1, 10, 20: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 117.

191 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 11.

192 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 2: AAS 56 (1964) 98.

193 Thánh Bê-na-đô, In Canticum sermo 27, 7, 14: Opera, ed. J. Leclecq-C.H Talbot-H. Rochais, v.1 (Romae 1957) 191.

194 X. Ep 5,25-27.

195 X. Ep 3,9-l1.

196 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.

197 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông thư Mulieris dignitatem, 27: AAS 80 (1988) 1718.

198 X. Ep 5,27.

199 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông thư Mulieris dignitatem 27: AAS 80 (1988) 1718, nota 55.

200 Thánh Augustinô, Epistula 187, 11, 34: CSEL 57,113 (PL 33,845).

201 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 1: AAS 57 (1965) 5.

202 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.

203 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.

204 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 45: AAS 58 (1966) 1066.

205 ĐGH Phao-lô VI, Allocutio ad Sacri Collegii Cardinalium Patres (22-6-1973): AAS 65 (1973) 391.

206 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 7: AAS 58 (1966) 956; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 17: AAS 57 (1965) 20-21.

207 X. Kh 14,4.

Scroll to Top