Tiết 2: Hội Thánh – Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

I. Hội Thánh – Dân Thiên Chúa (781-786)

781

“Quả thật, trong mọi thời và trong mọi dân, bất cứ ai kính sợ Thiên Chúa và thực hành sự công chính đều được Ngài đón nhận. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu độ người ta riêng rẽ từng người một, không liên kết với nhau, nhưng Ngài muốn thiết lập họ thành một Dân, là dân nhận biết Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài một cách thánh thiện. Vì vậy, Ngài đã chọn dân Ít-ra-en làm dân của Ngài, thiết lập với họ một Giao ước, giáo huấn họ dần dần, bằng cách biểu lộ chính mình Ngài và ý muốn của Ngài trong lịch sử của họ và thánh hiến họ cho Ngài. Tuy nhiên, tất cả những điều đó chỉ là chuẩn bị và hình bóng của Giao Ước mới và hoàn hảo, sẽ được ký kết trong Đức Ki-tô… Đó là Giao Ước mới Đức Ki-tô đã thiết lập trong máu Người, Người kêu gọi những người Do-thái và dân ngoại làm thành một Dân, liên kết nhau hướng về sự hợp nhất không theo xác thịt nhưng trong Thần Khí.208

Những đặc tính của dân Thiên Chúa (782)

782871, 2787, 1267, 695, 1741, 1972, 849, 769

Dân Thiên Chúa có những đặc tính, phân biệt họ một cách rõ ràng với tất cả những tập thể trong lịch sử về tôn giáo, chủng tộc, chính trị hoặc văn hóa:

— Đây là dân của Thiên Chúa: Thiên Chúa không thuộc riêng một dân nào. Nhưng Ngài thủ đắc cho mình một dân từ những người trước kia không phải là một dân: “là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh” (1 Pr 2,9).

— Người ta trở nên phần tử của dân này, không nhờ sự sinh ra theo thể lý, nhưng nhờ sự sinh ra “bởi ơn trên”, “bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,3-5), nghĩa là, nhờ đức tin vào Đức Ki-tô và nhờ bí tích Rửa Tội.

— “Dân này có Đấng làm Đầu là Chúa Giê-su Ki-tô (Đấng Được Xức Dầu, Đấng Mê-si-a): bởi vì cùng một Sự Xức Dầu, là Chúa Thánh Thần, chảy từ Đầu vào Thân thể, nên đây là “Dân thuộc về Đấng Được Xức Dầu.”

— “Dân này có phẩm giá và sự tự do của các con cái Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần ngự trong trái tim của họ như trong một đền thờ.”209

— “Dân này có Luật là giới răn mới của yêu thương như chính Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta.”210 Đó là Luật “mới” của Chúa Thánh Thần.211

Sứ vụ của dân này là làm muối đất và ánh sáng thế gian.212 “Dân này là hạt giống chắc chắn nhất mang lại sự hợp nhất, niềm hy vọng và ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.”213

— Cuối cùng, mục đích của dân này là “Nước Thiên Chúa, đã được chính Thiên Chúa khởi sự nơi trần thế và ngày càng lan rộng, cho đến khi được chính Ngài hoàn tất trong ngày tận thế.”214

Dân tư tế, tiên tri và vương đế (783-786)

783436, 873

Chúa Cha đã dùng Thánh Thần xức dầu và thiết đặt Chúa Giê-su Ki-tô làm “Tư tế, Tiên tri và Vương đế.” Toàn thể dân Thiên Chúa tham dự vào ba chức năng này của Đức Ki-tô và lãnh trách nhiệm về sứ vụ và về sự phục vụ, xuất phát từ ba chức năng đó.215

7841268, 1546

Khi một người gia nhập dân Thiên Chúa nhờ đức tin và nhờ bí tích Rửa Tội, thì người đó được tham dự vào ơn gọi duy nhất của dân đó: vào ơn gọi làm tư tế của dân Thiên Chúa. “Chúa Ki-tô được cất nhắc làm Thượng tế giữa loài người, đã làm cho dân mới ‘thành một nước, thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha của Người’. Thật vậy, những ai đã lãnh Phép Rửa, nhờ ơn tái sinh và việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, đều được thánh hiến để trở thành ngôi nhà thiêng liêng và hàng tư tế thánh.”216

78592

“Dân thánh của Thiên Chúa cũng được tham dự vào chức năng tiên tri của Đức Ki-tô.” Chủ yếu nhờ cảm thức siêu nhiên của đức tin, một cảm thức riêng của toàn thể dân Thiên Chúa, giáo dân và giáo phẩm, khi họ “luôn luôn gắn bó với đức tin đã được truyền lại cho các Thánh một lần cho mãi mãi”,217 khi họ đào sâu để hiểu biết đức tin hơn, và trở thành chứng nhân cho Đức Ki-tô giữa trần gian này.

7862449, 2443

Cuối cùng, dân Thiên Chúa được tham dự vào chức năng vương đế của Đức Ki-tô. Đức Ki-tô thực thi quyền vương đế của Người khi Người lôi kéo mọi người đến với mình qua cái Chết và sự Sống lại của Người.218 Đức Ki-tô, là Vua và là Chúa của vũ trụ, đã trở nên tôi tớ mọi người, vì “Người đến không phải để được người ta phục vu, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Đối với Ki-tô hữu, “cai trị là phục vụ” Đức Ki-tô;219 Hội Thánh đặc biệt “nhận ra trong những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh của Đấng Sáng Lập nghèo khó và đau khổ của mình.”220 Dân Thiên Chúa thực hiện “phẩm giá vương đế” của mình khi sống theo ơn gọi phục vụ cùng với Đức Ki-tô.

“Quả thật, tất cả những người được tái sinh trong Đức Ki-tô, dấu thánh giá làm cho họ trở thành Vua, việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần thánh hiến họ làm tư tế, để, ngoại trừ sự phục vụ đặc biệt của thừa tác vụ của chúng tôi, tất cả các Ki-tô hữu có tinh thần và có lý trí đều nhận ra mình thuộc dòng dõi vương đế và có chức vụ tư tế. Thật vậy, có gì mang tính vương đế đối với một tâm hồn cho bằng hướng dẫn thân xác mình quy phục Thiên Chúa? Và có gì mang tính tư tế cho bằng dâng lên Chúa một lương tâm trong sạch và dâng những lễ vật tinh tuyền của lòng đạo hạnh trên bàn thờ của trái tim?”221

II. Hội Thánh – Thân Thể Đức Ki-tô (787-796)
Hội Thánh là sự hiệp thông với Chúa Giê-su (787-789)

787755

Ngay từ đầu, Chúa Giê-su đã kết hợp các môn đệ Người vào cuộc đời Người;222 Người đã mặc khải cho họ mầu nhiệm Nước Trời;223 và cho họ được tham dự vào sứ vụ, niềm vui224 và những đau khổ của Người.225 Chúa Giê-su còn nói đến một sự hiệp thông mật thiết hơn nữa giữa Người với những ai đi theo Người: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em… Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,4-5). Và Người loan báo một sự hiệp thông bí nhiệm và thật sự giữa thân thể của Người và thân thể của chúng ta: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56).

788690

Khi không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ của Người, Chúa Giê-su đã không để họ phải mồ côi.226 Người hứa Người sẽ ở với họ cho đến tận thế.227 Người sai Thần Khí của Người đến với họ.228 Như vậy, sự hiệp thông với Chúa Giê-su một cách nào đó đã trở nên mật thiết hơn: “Quả thật, bằng việc truyền thông Thần Khí của Người, Chúa Giê-su đã thiết lập các anh em Người, được triệu tập từ muôn dân, thành thân thể của Người một cách mầu nhiệm.”229

789521

Việc so sánh Hội Thánh với một thân thể làm sáng tỏ sự ràng buộc thân mật giữa Hội Thánh và Đức Ki-tô. Hội Thánh không chỉ được quy tụ quanh Đức Ki-tô; Hội Thánh được nên một trong Người, trong Thân Thể của Người. Có ba khía cạnh của Hội Thánh – Thân Thể Đức Ki-tô, cần được lưu ý đặc biệt: sự hợp nhất của mọi chi thể với nhau nhờ họ kết hợp với Đức Ki-tô; Đức Ki-tô là Đầu của Thân Thể; và Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Ki-tô.

“Một Thân Thể duy nhất” (790-791)

790947, 1227, 1329

Khi đáp lại Lời Thiên Chúa và trở nên chi thể của Thân Thể Đức Ki-tô, các tín hữu được kết hợp mật thiết với Đức Ki-tô: “Trong thân thể đó, sự sống của Đức Ki-tô được truyền thông cho các tín hữu là những kẻ, nhờ các bí tích, đã được kết hợp một cách bí nhiệm và thật sự với Đức Ki-tô chịu nạn và được tôn vinh.”230 Điều này đặc biệt là thật đối với bí tích Rửa Tội, nhờ bí tích này chúng ta được kết hợp với cái Chết và sự Sống lại của Đức Ki-tô,231 và đối với bí tích Thánh Thể, nhờ bí tích này “khi chúng ta được tham dự thật sự vào Thân Thể của Chúa, chúng ta được nâng lên đến sự hiệp thông với Người và với nhau.”232

791814, 1937

Sự hợp nhất trong Thân Thể không làm mất tính đa dạng của các chi thể: “Trong việc xây dựng Thân Thể của Đức Ki-tô, có sự đa dạng của các chi thể và các phận vụ. Chỉ có một Thần Khí, Đấng phân phát các hồng ân khác nhau của Ngài, theo sự phong phú của Ngài và theo nhu cầu của các thừa tác vụ để mang lại lợi ích cho Hội Thánh.”233 Sự hợp nhất của Nhiệm Thể làm phát sinh và cổ võ đức mến giữa các tín hữu. “Từ đó, nếu một chi thể đau khổ, thì tất cả các chi thể đều đau khổ; còn nếu một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể đều chung vui.”234 Sau cùng, sự hợp nhất của Thân Thể Đức Ki-tô chiến thắng mọi chia rẽ nhân loại: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô; không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3,27-28).

“Đức Ki-tô là Đầu của Thân Thể này” (792-795)

792669, 1119

Đức Ki-tô là “Đầu của Thân Thể, nghĩa là Đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Người là Nguyên Lý của cả công trình tạo dựng và công trình cứu chuộc. Khi được siêu thăng vào trong vinh quang của Chúa Cha, “Người đứng hàng đầu trong mọi sự” (Cl 1,18), nhất là trong Hội Thánh, và qua Hội Thánh, Người mở rộng Nước của Người trên mọi sự.

793661, 519

Chính Người kết hợp chúng ta với cuộc Vượt Qua của Người: Mọi chi thể phải trở nên giống như Người “cho đến khi Đức Ki-tô được hình thành” nơi họ (Gl 4,l9). “Chính vì thế, chúng ta… được đảm nhận lấy các mầu nhiệm của cuộc đời Người, hiệp thông với những đau khổ của Người như thân thể hiệp thông với Đầu, cùng chịu đau khổ với Người, để cùng được tôn vinh với Người.”235

794872

Chính Người làm cho chúng ta được tăng trưởng:236 Để làm cho chúng ta tăng trưởng trong Người, là Đầu của chúng ta,237 Đức Ki-tô phân phối các hồng ân và các thừa tác vụ trong Thân Thể Người là Hội Thánh, nhờ đó chúng ta giúp đỡ lẫn nhau trên con đường cứu độ.

795695, 1474

Vì vậy, Đức Ki-tô và Hội Thánh là “Đức Ki-tô toàn thể” (Christus totus). Hội Thánh là một với Đức Ki-tô. Các Thánh ý thức một cách rất sống động về sự hợp nhất này:

“Vậy chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ, vì không những chúng ta trở thành Ki-tô hữu, mà còn trở thành chính Đức Ki-tô. Thưa anh em, anh em có hiểu ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Đầu, trên chúng ta không? Anh em hãy cảm phục và vui mừng: chúng ta được trở thành Đức Ki-tô. Quả vậy, nếu Người là Đầu và chúng ta là chi thể, thì con người toàn thể (totus homo) chính là Người và chúng ta… Vậy sự viên mãn của Đức Ki-tô, là Đầu và các chi thể. Nhưng Đầu và các chi thể là gì? Đó là Đức Ki-tô và Hội Thánh.”238

“Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã tỏ cho thấy, Người cùng với Hội Thánh mà Người đã đảm nhận, là như một người duy nhất.”239

“Đầu và các chi thể là như một người huyền nhiệm duy nhất.”240

Một câu nói của thánh nữ Gioanna xứ Arc (Jean d’Arc) trước tòa án tóm tắt đức tin của các Thánh tiến sĩ và cũng diễn tả lương tri của tín hữu: “Về Chúa chúng ta và Hội Thánh thì tôi nghĩ cả hai chỉ là một, không phải rắc rối làm gì.”241

Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Ki-tô (796)

796757, 219, 772, 1602, 1616

Sự hợp nhất giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh, giữa Đầu và các chi thể của Thân Thể, cũng bao hàm sự phân biệt giữa hai bên trong một tương quan cá vị. Khía cạnh này thường được diễn tả bằng hình ảnh phu quân và hiền thê. Đề tài Đức Ki-tô phu quân của Hội Thánh đã được các Tiên tri chuẩn bị và ông Gio-an Tẩy Giả loan báo.242 Chính Chúa cũng tự xưng như là “chàng rể” (Mc 2,l9).243 Thánh Tông Đồ trình bày Hội Thánh và mỗi tín hữu, chi thể của Thân Thể Người, như là Hiền Thê “được kết hôn” với Chúa Ki-tô để nên một Thần Khí với Người.244 Hội Thánh là Hiền Thê tinh tuyền của Con Chiên tinh tuyền,245 mà Đức Ki-tô đã yêu thương, Người đã hiến mạng sống mình vì Hội Thánh “để thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh” (Ep 5,26), Người liên kết Hội Thánh với mình bằng một giao ước vĩnh cửu, và không ngừng chăm sóc Hội Thánh như thân thể riêng của Người:246

“Đây là Đức Ki-tô toàn thể, gồm Đầu và thân thể, và là một do bởi nhiều người… Vậy hoặc là đầu nói, hoặc là các chi thể nói, thì đều là Đức Ki-tô nói: Người nói trong cương vị là Đầu (ex persona capitis), và Người nói trong cương vị là Thân Thể (ex persona corporis). Nhưng nói gì? ‘Cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh’ (Ep 5,31-32). Và chính Chúa cũng nói trong Tin Mừng: “Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt l9,6). Vậy như anh em đã biết, thật sự thì có hai người, nhưng cả hai đã nên một khi thành vợ thành chồng… Với tư cách là Đầu, Người tự xưng là ‘Phu quân’; với tư cách là Thân Thể, Người tự xưng là ‘Hiền thê’”247 .

III. Hội Thánh – Đền Thờ Chúa Thánh Thần (797-801)

797813, 586

“Tinh thần hay linh hồn chúng ta tương quan với các chi thể thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng như thế đối với các chi thể của Đức Ki-tô, đối với Thân Thể Đức Ki-tô là Hội Thánh.”248 “Cũng phải quy về Thần Khí của Đức Ki-tô, như về một nguyên lý không hữu hình, việc tất cả các phần của Thân Thể được kết hợp với nhau, cũng như với Đầu cao trọng của mình, vì Thần Khí hiện diện trọn vẹn nơi Đầu, trọn vẹn nơi Thân Thể, trọn vẹn nơi mỗi một chi thể.”249 Chúa Thánh Thần làm cho Hội Thánh trở nên “Đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6,l6):250

“Quả vậy, hồng ân của Thiên Chúa đã được ủy thác cho Hội Thánh… và sự hiệp thông của Đức Ki-tô đã được ký thác cho Hội Thánh, đó là Chúa Thánh Thần, Ngài là bảo chứng của sự bất diệt, là sức mạnh củng cố đức tin của chúng ta và là chiếc thang đưa chúng ta lên tới Thiên Chúa… Quả vậy, ở đâu có Hội Thánh, thì ở đó có Thần Khí của Thiên Chúa; và ở đâu có Thần Khí của Thiên Chúa, thì ở đó có Hội Thánh và mọi ân sủng.”251

798737, 1091-1109, 791

Chúa Thánh Thần là “nguyên lý của mọi hành động tác sinh và thật sự có giá trị cứu độ trong mỗi phần của Thân Thể.”252 Ngài hoạt động bằng nhiều cách để xây dựng toàn thân trong đức mến:253 bằng Lời Thiên Chúa là “Lời có sức xây dựng” (Cv 20,32); bằng bí tích Rửa Tội nhờ đó Ngài làm nên Thân Thể Đức Ki-tô;254 bằng các bí tích giúp cho các chi thể của Đức Ki-tô được tăng trưởng và được chữa lành; bằng ân sủng của các Tông Đồ, là điều trổi vượt trong các hồng ân của Ngài;255 bằng các nhân đức, giúp các tín hữu hành động theo sự lành, và cuối cùng bằng nhiều ân sủng đặc biệt (được gọi là “các đặc sủng”) giúp các tín hữu “có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và phận vụ khác nhau, để mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Hội Thánh.”256

Các đặc sủng (799-801)

799951, 2003

Các đặc sủng, hoặc ngoại thường hoặc đơn giản và khiêm tốn, là những ân sủng của Chúa Thánh Thần, đều hữu ích cho Hội Thánh cách trực tiếp hay gián tiếp, theo mức độ các đặc sủng đó quy về việc xây dựng Hội Thánh, về việc mưu ích cho con người và về những nhu cầu của trần gian.

800

Các đặc sủng phải được đón nhận với lòng biết ơn, không những bởi người lãnh nhận các đặc sủng đó, mà còn bởi tất cả các phần tử của Hội Thánh. Đó là sự phong phú thật kỳ diệu của ân sủng cho sức sống tông đồ và cho sự thánh thiện của toàn Thân Thể Đức Ki-tô; miễn là đó phải là những hồng ân thật sự xuất phát bởi Chúa Thánh Thần, và được thực thi hoàn toàn phù hợp với những thúc đẩy đích thực của Ngài, nghĩa là theo đức mến, là thước đo thật của các đặc sủng.257

801894, 1905

Theo nghĩa này, rõ ràng là sự phân định các đặc sủng luôn luôn là cần thiết. Không có đặc sủng nào được miễn khỏi tương quan với và quy phục các Mục tử của Hội Thánh. Các ngài “có thẩm quyền đặc biệt, không phải để dập tắt Thần Khí, nhưng phải thử thách tất cả và giữ lại điều gì là tốt”,258 để tất cả các đặc sủng, trong sự khác biệt và bổ sung lẫn nhau, cùng cộng tác “vì lợi ích chung” (1 Cr 12,7).259

Tóm lược (802-810)

802

Chúa Giê-su Ki-tô “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành dân riêng của Người” (Tt 2,14).

803

“Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr 2,9).

804

Chúng ta gia nhập dân Thiên Chúa nhờ đức tin và nhờ bí tích Rửa Tội. “Tất cả mọi người đều được kêu gọi gia nhập dân mới của Thiên Chúa”260 , để trong Đức Ki-tô “người ta làm thành một gia đình duy nhất và một dân duy nhất của Thiên Chúa.”261

805

Hội Thánh là Thân Thể của Đức Ki-tô. Nhờ Thần Khí và nhờ hành động của Ngài trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô, Đấng đã chết và đã sống lại, làm cho cộng đoàn các tín hữu nên Thân Thể của Người.

806

Trong sự hợp nhất của Thân Thể này, có sự đa dạng của các chi thể và các chức năng. Tất cả các chi thể đều được liên kết với nhau, nhất là với những người đau khổ, những người nghèo và những người bị bách hại.

807

Hội Thánh là một Thân Thể có Đức Ki-tô là Đầu: Hội Thánh sống do Người, trong Người, và cho Người; chính Người sống với Hội Thánh và trong Hội Thánh.

808

Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Ki-tô: Người đã yêu mến Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh. Người đã thanh tẩy Hội Thánh bằng Máu Người. Người làm cho Hội Thánh trở thành Mẹ, sinh ra tất cả các con cái của Thiên Chúa.

809

Hội Thánh là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Thần Khí là như linh hồn của Nhiệm Thể, là nguyên lý của sự sống của Nhiệm Thể, nguyên lý của sự hợp nhất trong khác biệt, nguyên lý của sự phong phú các hồng ân và đặc sủng của Nhiệm Thể.

810

“Như vậy, Hội Thánh phổ quát xuất hiện như một dân được quy tụ trong sự hợp nhất của Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.”262


Chú thích

208 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 12-13.

209 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.

210 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13; x. Ga 13,14.

211 X. Rm 8,2; Gl 5,25.

212 X. Mt 5,13-16.

213 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.

214 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 9: AAS 57 (1965) 13.

215 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptoris Hominis 18-21: AAS 71 (1979) 301-320.

216 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

217 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.

218 X. Ga 12,32.

219 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 36: AAS 57 (1965) 41.

220 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.

221 Thánh Lê-ô Cả, Sermo 4, 1: CCL 138,16-17 (PL 54,149).

222 X. Mc 1,l6-20; 3,l3-l9.

223 X. Mt l3,10-l7.

224 X. Lc 10,l7-20.

225 X. Lc 22,28-30.

226 X. Ga l4,l8.

227 X. Mt 28,20.

228 X. Ga 20,22; Cv 2,33.

229 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.

230 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.

231 X. Rm 6,4-5; 1 Cr 12,13.

232 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.

233 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.

234 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.

235 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.

236 X. Cl 2,19.

237 X. Ep 4,11-16.

238 Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 21, 8: CCL 36,216-217 (PL 35,1568).

239 Thánh Grêgôriô Cả, Moralia in Iob, Praefatio, 6, 14: CCL 143,19 (PL 75,525).

240 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 48, a. 2, ad 1: Ed. Leon. 11, 464.

241 Thánh Gioana xứ Arc [Jean d’Arc], Dictum: Procès de condamnation, ed. P. Tisset (Paris 1960) 166.

242 X. Ga 3,29.

243 X. Mt 22,1-l4; 25,1-l3.

244 X. 1 Cr 6,l5-l7; 2 Cr 11,2.

245 X. Kh 22,l7; Ep 1,4; 5,27.

246 X. Ep 5,29.

247 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 74, 4: CCL 39,1027 (PL 37,948-949).

248 Thánh Augustinô, Sermo 268, 2: PL 38,1232.

249 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Mystici corporis: DS 3808.

250 X. 1 Cr 3,16-17; Ep 2,21.

251 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 24, 1: SC 211,472-474 (PG 7,966).

252 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Mystici corporis: DS 3808.

253 X. Ep 4,16.

254 X. 1 Cr l2,l3.

255 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.

256 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16; x. Id., Sắc lệnh Apostolicam actuositatem, 3: AAS 58 (1966) 839-840.

257 X. 1 Cr 13.

258 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 17.

259 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 30: AAS 57 (1965) 37; ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Christifideles laici, 24: AAS 81 (1989) 435.

260 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 13: AAS 57 (1965) 17.

261 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1: AAS 58 (1966) 947.

262 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 4: AAS 57 (1965) 7; x. Thánh Cyprianô, De dominica Oratione, 23: CCL 3A, 105 (PL 4,553).

Scroll to Top