Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

5121163

Khi đề cập đến cuộc đời Đức Ki-tô, Tín biểu chỉ nói về các mầu nhiệm Nhập Thể (được thụ thai và ra đời) và Vượt Qua (chịu khổ nạn, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chết, chịu mai táng, xuống ngục tổ tông, sống lại, và lên trời). Tín biểu không nói gì cách minh nhiên về các mầu nhiệm của cuộc đời ẩn dật và công khai của Chúa Giê-su; tuy nhiên, các đề mục đức tin liên quan đến việc Nhập Thể và cuộc Vượt Qua của Chúa Giê-su, lại làm sáng tỏ toàn bộ cuộc đời trần thế của Người. “Tất cả những việc Chúa Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1,1-2), cần phải được nhìn xem dưới ánh sáng các mầu nhiệm Giáng Sinh và Phục Sinh.

513426, 561

Tùy theo hoàn cảnh, việc dạy giáo lý sẽ trình bày tất cả sự phong phú của các mầu nhiệm của Chúa Giê-su. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu lên một số yếu tố chung cho tất cả mọi mầu nhiệm của cuộc đời của Người (I), rồi sau đó phác họa các mầu nhiệm chính yếu trong cuộc đời ẩn dật (II) và công khai (III) của Chúa Giê-su.

I. Toàn bộ cuộc đời Chúa Giê-su là mầu nhiệm (514-521)

514

Có nhiều điều liên quan đến Chúa Giê-su mà loài người tò mò muốn biết, nhưng lại không được các sách Tin Mừng nói đến. Tin Mừng hầu như không nói gì về cuộc sống của Người ở Na-da-rét, và một phần lớn cuộc đời công khai của Người cũng không được kể lại.186 Những gì đã được viết ra trong các Tin Mừng, được kể lại là “để anh em tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).

515126, 609, 774, 477

Các sách Tin Mừng đã được viết ra bởi những người trong số những người đầu tiên đã có đức tin,187 và muốn cho những người khác được tham dự vào đức tin đó. Đã được biết Chúa Giê-su là ai trong đức tin, họ có thể thấy và chỉ cho người khác thấy những dấu tích của mầu nhiệm của Người trong suốt cuộc đời trần thế của Người. Từ những mảnh tã quấn thân ngày Người Giáng Sinh,188 cho đến chút giấm lúc Người chịu khổ hình,189 và tấm khăn liệm ngày Người Phục Sinh,190 mọi sự trong cuộc đời Chúa Giê-su đều là dấu chỉ của mầu nhiệm của Người. Qua những cử chỉ, những phép lạ, những lời nói của Người, Người mặc khải “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Như vậy, nhân tính của Người xuất hiện như một “bí tích”, nghĩa là, một dấu chỉ và dụng cụ của thần tính của Người, và của ơn cứu độ mà Người mang lại: những gì hữu hình trong cuộc đời trần thế của Người, dẫn chúng ta đến với mầu nhiệm vô hình, là địa vị làm Con Thiên Chúa của Người và sứ vụ cứu chuộc của Người.

Những nét chung của các mầu nhiệm của Chúa Giê-su (516-518)

51665, 2708

Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một Mặc khải về Chúa Cha: những lời Người nói, những việc Người làm, những lúc Người im lặng, những đau khổ Người chịu, cách thế Người sống và giảng dạy. Chúa Giê-su có thể nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga l4,9), và Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Vì Chúa chúng ta đã làm người để chu toàn thánh ý của Chúa Cha,191 nên ngay cả những điểm nhỏ nhặt nhất trong các mầu nhiệm của Người đều biểu lộ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.192

517606, 1115

Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một mầu nhiệm Cứu chuộc. Ơn Cứu chuộc đến với chúng ta trước hết nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá,193 nhưng mầu nhiệm này được thực hiện qua cả cuộc đời Đức Ki-tô:

— ngay trong việc Người Nhập Thể, Người đã trở nên nghèo để lấy cái nghèo của Người mà làm cho chúng ta nên giàu có;194

— trong cuộc sống ẩn dật, Người vâng phục195 để sửa lại sự bất phục tùng của chúng ta;

— khi giảng dạy, lời Người nói thanh tẩy những người nghe;196

— khi chữa bệnh và trừ quỷ, “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17);197

— khi phục sinh, Người làm cho chúng ta được nên công chính.198

518668, 2748

Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một mầu nhiệm Quy tụ: tất cả những gì Chúa Giê-su đã làm, đã nói, và đã chịu đau khổ, đều có mục đích là để phục hồi con người sa ngã về lại ơn gọi đầu tiên của họ:

“Khi nhập thể và làm người, Đức Ki-tô đã quy tụ nơi mình lịch sử lâu dài của nhân loại, và đã đem lại ơn cứu độ cho chúng ta theo con đường tắt, để những gì xưa kia chúng ta đã mất nơi A-đam, tức là không còn là hình ảnh và giống như Thiên Chúa nữa, thì nay chúng ta được nhận lại trong Đức Ki-tô Giê-su.”199 “Chính vì thế, Đức Ki-tô đã trải qua mọi tuổi đời, để cho mọi người lại được hiệp thông với Thiên Chúa.”200

Chúng ta hiệp thông với các mầu nhiệm của Chúa Giê-su (519-521)

519793, 602, 1085

Mọi sự phong phú của Đức Ki-tô là dành cho mọi người và là tài sản của mọi người.201 Đức Ki-tô không sống cho bản thân Người, nhưng cho chúng ta, từ lúc Người nhập thể “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”,202 cho đến khi Người chịu chết “vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3) và sống lại “để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25). Cả bây giờ nữa, Người vẫn là trạng sư của chúng ta “trước mặt Chúa Cha” (1 Ga 2,1), “vì Người hằng sống để chuyển cầu” cho chúng ta (Dt 7,25). Với tất cả những gì Người đã sống và đã chịu đựng một lần cho mãi mãi vì chúng ta, giờ đây Người luôn hiện diện “trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24) đến muôn đời.

520459, 359, 2607

Trong cả cuộc đời của Người, Chúa Giê-su tỏ mình là mẫu mực của chúng ta:203 chính Người là “con người hoàn hảo”,204 Người mời gọi chúng ta trở nên môn đệ của Người và bước đi theo Người; qua việc tự hạ của Người, Người ban cho chúng ta một gương mẫu để bắt chước;205 qua việc cầu nguyện của Người, Người lôi kéo chúng ta cầu nguyện;206 qua sự nghèo khó của Người, Người kêu gọi chúng ta tự nguyện chấp nhận sự thiếu thốn và những cơn bách hại.207

5212715, 1391

Tất cả những gì chính Người đã sống, Đức Ki-tô làm cho chúng ta được sống những điều đó trong Người, và Người sống những điều đó trong chúng ta. “Khi nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã nên một với mọi người.”208 Chúng ta được kêu gọi nên một với Người; chính Người làm cho chúng ta, với tư cách là những chi thể của Thân Thể Người, được hiệp thông với những gì Người đã sống trong thân thể Người vì chúng ta và nên như mẫu mực cho chúng ta:

Chúng ta phải tiếp nối và hoàn thành nơi bản thân chúng ta các giai đoạn của cuộc đời Chúa Giê-su và các mầu nhiệm của Người, và thường xuyên cầu xin… để Người hoàn tất và kiện toàn những điều ấy trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người… Vì Con Thiên Chúa có ý truyền thông, mở rộng và tiếp tục các mầu nhiệm của Người trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người,… hoặc bằng các ân sủng Người quyết định ban cho chúng ta hoặc bằng những hiệu quả Người muốn thực hiện nơi chúng ta qua các mầu nhiệm ấy. Bằng cách này, Người muốn hoàn tất các mầu nhiệm của Người trong chúng ta.209

II. Các mầu nhiệm của thời thơ ấu và của cuộc đời ẩn dật của Chúa Giê-su (522-534)
Những sự chuẩn bị (522-524)

522711, 762

Việc Con Thiên Chúa ngự đến trong thế gian là một biến cố hết sức trọng đại, đến độ Thiên Chúa đã muốn chuẩn bị cho biến cố đó qua nhiều thế kỷ. Các nghi thức và các hy lễ, các hình ảnh và các biểu tượng của “Giao Ước Cũ”,210 tất cả đều được Thiên Chúa làm cho hội tụ trong Đức Ki-tô: Chính Ngài loan báo Đức Ki-tô qua miệng các Tiên tri kế tiếp nhau ở Ít-ra-en. Ngoài ra, Ngài còn khơi dậy trong tâm hồn các người ngoại giáo một sự chờ đợi chưa rõ ràng việc Con Thiên Chúa ngự đến.

523717-720

Thánh Gio-an Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa,211 đã được sai đến để dọn đường.212 Thánh nhân là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc 1,76), trổi vượt tất cả mọi Tiên tri,213 và là vị Tiên tri cuối cùng.214 Thánh nhân khởi đầu Tin Mừng;215 ngay từ trong lòng mẹ đã đón chào Đức Ki-tô đến,216 và tìm thấy niềm vui trong việc được làm “bạn của chú rể” (Ga 3,29), Đấng mà thánh nhân chỉ cho biết là Chiên “Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Thánh nhân đi trước Chúa Giê-su trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a” (Lc 1,17), và làm chứng cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình và cuối cùng bằng cuộc tử đạo của mình.217

5241171

Mỗi năm khi cử hành phụng vụ Mùa Vọng, Hội Thánh thể hiện lại niềm mong đợi Đấng Mê-si-a: khi hiệp thông với sự chuẩn bị lâu dài để đón Đấng Cứu độ ngự đến lần thứ nhất, các tín hữu canh tân lòng sốt sắng đón chờ Người ngự đến lần thứ hai.218 Khi mừng sinh nhật và cuộc tử đạo của vị Tiền Hô, Hội Thánh hợp nhất với ước nguyện của thánh nhân: “Đức Ki-tô phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).

Mầu nhiệm Giáng Sinh (525-526)

525437, 2443

Chúa Giê-su đã ra đời trong cảnh bần hàn của chuồng bò lừa, trong một gia đình nghèo;219 các mục đồng chất phác là những chứng nhân đầu tiên của biến cố. Chính trong cảnh nghèo hèn này mà vinh quang thiên quốc được tỏ lộ.220 Hội Thánh không ngừng hoan hỉ hát mừng vinh quang đêm ấy:

“Hôm nay Đức Trinh Nữ sinh hạ Đấng Hằng Hữu,
và thế gian dâng tặng hang đá cho Đấng Chí Tôn.
Các Thiên thần cùng với các mục đồng tôn vinh Người,
các đạo sĩ tiến bước theo ánh sao:
bởi vì một Hài Nhi bé nhỏ, là Thiên Chúa vĩnh cửu,
đã được sinh ra cho chúng ta!”221

526460

“Trở nên trẻ nhỏ” trong tương quan với Thiên Chúa là điều kiện để vào Nước Trời;222 để được vậy, cần phải tự hạ,223 phải trở nên bé mọn; hơn nữa, còn phải “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3,7), được sinh ra từ Thiên Chúa224 để trở nên con cái Thiên Chúa.225 Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Ki-tô “được thành hình” nơi chúng ta.226 Việc Giáng Sinh của Chúa Giê-su là mầu nhiệm của “việc trao đổi kỳ diệu” này:

“Cuộc trao đổi sao mà kỳ diệu! Đấng Tạo hóa của nhân loại, nhận lấy một thân xác có linh hồn, khấng hạ sinh bởi một Trinh Nữ; khi làm người mà chẳng cần mầm giống nam nhân, Người đã rộng ban cho chúng ta thần tính của Người.”227

Các mầu nhiệm của thời thơ ấu của Chúa Giê-su (527-530)

527580, 1214

Việc cắt bì cho Chúa Giê-su, ngày thứ tám sau khi Người ra đời,228 là dấu chỉ việc Người được tháp nhập vào dòng dõi của tổ phụ Áp-ra-ham, vào dân của Giao Ước, là dấu chỉ sự suy phục Lề luật của Người,229 của việc Người đến với phụng tự Ít-ra-en, nền phụng tự mà Người sẽ tham dự suốt đời Người. Dấu chỉ này báo trước “phép cắt bì của Đức Ki-tô”, tức là bí tích Rửa Tội.230

528439, 711-716, 122

Hiển Linh là sự tỏ mình ra của Chúa Giê-su, như Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en, là Con Thiên Chúa, và là Đấng Cứu Độ trần gian. Cùng với việc Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Jorđanô và với tiệc cưới Ca-na,231 lễ này mừng kính việc “các đạo sĩ” từ phương Đông đến thờ lạy Chúa Giê-su.232 Nơi các “đạo sĩ” này, là đại diện cho các tôn giáo lương dân lân cận, Tin Mừng nhận ra những hoa quả đầu mùa của các dân tộc sẽ đón nhận Tin Mừng cứu độ nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Việc các đạo sĩ đến Giê-ru-sa-lem để bái lạy Vua dân Do-thái233 cho thấy các vị ấy đến Ít-ra-en, dưới ánh sáng tiên báo Đấng Mê-si-a của ngôi sao Đa-vít,234 để tìm kiếm Đấng sẽ là vua của các dân tộc.235 Việc họ đến có nghĩa là các dân ngoại chỉ có thể gặp được Chúa Giê-su và thờ lạy Người là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ trần gian, bằng cách hướng về dân Do-thái236 và nhờ dân ấy mà lãnh nhận lời hứa về Đấng Mê-si-a như đã được ghi chép trong Cựu Ước.237 Cuộc Hiển Linh cho thấy đông đảo dân ngoại được gia nhập vào gia đình của các Tổ Phụ,238 và được hưởng “phẩm giá của Ít-ra-en.”239

529583, 439, 614

Việc dâng Chúa Giê-su vào Đền thờ240 cho thấy Người có tư cách là “con đầu lòng” thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng của Ngài.241 Cùng với ông Simêon và bà An-na, toàn thể dân Ít-ra-en đến gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (truyền thống Byzantin gọi biến cố này như vậy). Chúa Giê-su được nhìn nhận là Đấng Mê-si-a được mong đợi đã quá lâu, là “ánh sáng muôn dân”, là “vinh quang của Ít-ra-en”, nhưng cũng là “dấu hiệu cho người đời chống báng.” Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho Đức Ma-ri-a, loan báo một việc dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất, là việc dâng hiến trên thập giá, việc dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa “đã dành sẵn cho muôn dân.”

530574

Việc trốn sang Ai Cập và sự kiện tàn sát trẻ vô tội242 cho thấy sự chống đối của bóng tối đối với ánh sáng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Cả cuộc đời của Đức Ki-tô sẽ được ghi dấu bằng sự bách hại. Những ai thuộc về Người, đều tham dự vào điều đó với Người.243 Việc Người rời bỏ Ai Cập để trở về244 gợi nhớ cuộc Xuất Hành245 và giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng giải phóng tối hậu.

Các mầu nhiệm của quãng đời ẩn dật của Chúa Giê-su (531-534)

5312427

Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giê-su đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do-thái giáo,246 một cuộc sống trong cộng đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mặc khải là Chúa Giê-su đã vâng phục cha mẹ Người247 và “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).

5322214-2220, 612

Sự vâng phục của Chúa Giê-su đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự vâng phục con thảo của Người đối với Cha trên trời của Người. Việc Chúa Giê-su hằng ngày vâng phục thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a loan báo và tham dự trước vào sự tuân phục của lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Ki-tô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông A-đam đã phá hủy vì bất tuân.248

5332712, 2204, 2427

Cuộc đời ẩn dật ở Na-da-rét cho phép mọi người hiệp thông với Chúa Giê-su qua những lối sống thông thường nhất:

“Ngôi nhà Na-da-rét là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giê-su; đây là trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn… Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Na-da-rét dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình là gì… Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Na-da-rét, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc… Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ.”249

534583, 2599, 964

Việc tìm thấy Chúa Giê-su trong Đền thờ250 là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giê-su. Ở đây, Chúa Giê-su cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Ma-ri-a “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giê-su ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình thường.

III. Các mầu nhiệm của cuộc đời công khai của Chúa Giê-su (535-560)
Chúa Giê-su chịu phép rửa (535-537)

535719-720, 701, 438

Chúa Giê-su khởi đầu251 quãng đời công khai bằng việc Người chịu phép rửa của ông Gio-an tại sông Giođan.252 Ông Gio-an rao giảng “phép rửa tỏ lòng thống hối để được ơn tha tội” (Lc 3,3). Đông đảo những người tội lỗi, thu thuế, binh lính,253 Pha-ri-sêu và Xa-đốc,254 cùng những cô gái điếm,255 đến xin ông làm phép rửa. “Bấy giờ Chúa Giê-su đến.” Vị Tẩy Giả ngần ngại, nhưng Chúa Giê-su yêu cầu: Người chịu phép rửa. Lúc đó, Chúa Thánh Thần, lấy hình chim bồ câu, ngự xuống trên Chúa Giê-su, và có tiếng phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 3,l3-l7). Đây là việc Chúa Giê-su tỏ mình ra (“Hiển Linh”) với tư cách là Đấng Mê-si-a của Ít-ra-en và là Con Thiên Chúa.

536606, 1224, 444, 727, 739

Phép Rửa của Chúa Giê-su, về phần Người, là sự chấp nhận và khởi đầu sứ vụ của Người, với tư cách là Người Tôi Trung Đau Khổ. Người chấp nhận bị liệt vào hàng tội nhân.256 Chính Người là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29); nay Người tham dự trước vào “phép rửa” là cái chết đẫm máu của Người.257 Người đến để chu toàn “đức công chính” (Mt 3,l5), nghĩa là, Người hoàn toàn quy phục thánh ý của Cha Người: vì tình yêu, Người bằng lòng chịu phép rửa là cái chết để chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi.258 Đáp lại sự chấp nhận ấy, có tiếng của Chúa Cha tuyên bố Ngài hoàn toàn hài lòng về Con của mình.259 Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giê-su đã có đầy tràn từ lúc được Người được thụ thai, nay đến để “ở lại” trên Người.260 Chúa Giê-su sẽ là nguồn mạch ban Thánh Thần cho toàn thể nhân loại. Trong phép rửa của Người, “các tầng trời”, mà tội của ông A-đam đã đóng lại, nay được “mở ra cho Người” (Mt 3,l6); và dòng nước nhờ việc Chúa Giê-su và Chúa Thánh Thần ngự xuống được thánh hóa, để chuẩn bị cho một công trình tạo dựng mới.

5371262, 628

Ki-tô hữu, nhờ bí tích Rửa Tội, được đồng hóa một cách bí tích với Chúa Giê-su, Đấng, trong phép rửa của mình, đã tham dự trước vào cái Chết và sự Sống Lại của mình; họ phải tiến vào mầu nhiệm của sự khiêm tốn quy phục và thống hối này, bước xuống nước cùng với Chúa Giê-su để cùng với Người bước lên, và phải được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần để trở nên con yêu dấu của Chúa Cha trong Chúa Con và “sống một đời sống mới” (Rm 6,4):

“Chúng ta hãy cùng chịu mai táng với Đức Ki-tô bằng Phép Rửa, để cùng được phục sinh với Người; hãy cùng bước xuống với Người, để đồng thời cũng được nâng lên; chúng ta hãy cùng đi lên với Người, để đồng thời cũng được tôn vinh.”261

“Nhờ những gì đã được hoàn thành nơi Đức Ki-tô, chúng ta biết rằng: sau khi chúng ta được tẩy rửa trong nước và Chúa Thánh Thần từ trời ngự xuống trên chúng ta, thì chúng ta được xức dầu vinh quang thiên quốc và trở thành con cái Thiên Chúa nhờ có tiếng của Chúa Cha nhận cho làm nghĩa tử.”262

Chúa Giê-su chịu cám dỗ (538-540)

538394, 518

Các sách Tin Mừng có nói đến một thời gian Chúa Giê-su sống cô tịch trong hoang địa, ngay sau khi Người nhận phép rửa của ông Gio-an. “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa” (Mc 1,12) và Chúa Giê-su ở lại đó bốn mươi ngày không ăn; Người sống giữa các dã thú và các Thiên thần hầu hạ Người.263 Cuối thời gian này, Xa-tan cám dỗ Người ba lần nhằm đặt vấn đề về thái độ con thảo của Người đối với Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã đẩy lui các cuộc tấn công này, chúng thu tóm cơn cám dỗ của ông A-đam trong vườn địa đàng và những cơn cám dỗ của dân Ít-ra-en trong hoang địa, rồi ma quỷ bỏ Người mà đi, “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,l3).

539397, 385, 609

Các tác giả Tin Mừng nêu rõ ý nghĩa cứu độ của biến cố bí nhiệm này. Chúa Giê-su là A-đam mới, Người vững lòng trung thành ở chỗ A-đam cũ đã đầu hàng cơn cám dỗ. Chúa Giê-su thực hiện cách hoàn hảo ơn gọi của dân Ít-ra-en: trái hẳn với những kẻ xưa kia đã thách thức Thiên Chúa suốt bốn mươi năm trong hoang địa,264 Chúa Giê-su được mặc khải như Người Tôi Trung của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Trong việc này, Chúa Giê-su toàn thắng ma quỷ: Người đã trói kẻ mạnh và thu lại tài sản nó đã cướp.265 Chiến thắng của Chúa Giê-su trước kẻ cám dỗ trong hoang địa báo trước chiến thắng của cuộc khổ nạn, là sự vâng phục tuyệt đối trong tình yêu con thảo của Người đối với Chúa Cha.

5402119, 519, 2849, 1438

Cám dỗ Chúa Giê-su phải chịu cho thấy cách thế Con Thiên Chúa là Đấng Mê-si-a, trái ngược hẳn điều Xa-tan xúi giục Người và người ta muốn gán cho Người.266 Chính vì thế, Đức Ki-tô chiến thắng Tên cám dỗ là chiến thắng cho chúng ta: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Mỗi năm, qua bốn mươi ngày Mùa Chay, Hội Thánh kết hợp với mầu nhiệm Chúa Giê-su trong hoang địa.

“Nước Thiên Chúa đã đến gần” (541-542)

5412816, 763, 669, 768, 865

“Sau khi ông Gio-an bị nộp, Chúa Giê-su đến miền Ga-li-lê, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: ‘Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’” (Mc 1,14-15). “Để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đức Ki-tô đã khởi đầu Nước Trời nơi trần gian.”267 Và thánh ý Chúa Cha là “nâng loài người lên, cho họ được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa.”268 Thiên Chúa thực hiện điều này bằng cách quy tụ người ta quanh Con của Ngài, là Chúa Giê-su Ki-tô. Cộng đồng được quy tụ này, chính là Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Thiên Chúa” trên trần gian.269

5422233, 789

Đức Ki-tô là trung tâm của cộng đồng nhân loại này trong “gia đình của Thiên Chúa.” Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu chỉ biểu lộ Nước Thiên Chúa, bằng việc sai phái các môn đệ của Người. Người sẽ làm cho Nước Người đến, chủ yếu nhờ mầu nhiệm cao cả là cuộc Vượt Qua của Người, tức là cái Chết trên thập giá và sự Sống lại của Người. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Mọi người đều được mời gọi tham dự vào sự kết hợp này với Đức Ki-tô.270

Chúa Giê-su loan báo Nước Thiên Chúa (543-546)

543764

Mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa. Nước này của Đấng Mê-si-a trước tiên được loan báo cho con cái Ít-ra-en,271 nhưng hướng đến việc đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc.272 Để vào Nước Thiên Chúa, cần phải đón nhận lời của Chúa Giê-su:

“Lời Chúa được ví như hạt giống gieo trong ruộng: ai nghe Lời Chúa với đức tin và gia nhập đàn chiên nhỏ của Đức Ki-tô, thì đã đón nhận chính Nước Người; rồi do sức của nó, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho tới mùa gặt.”273

544709, 2443, 2546

Nước Thiên Chúa thuộc về những người nghèo hèn và bé mọn, nghĩa là, những người đón nhận Nước ấy với tâm hồn khiêm tốn. Đức Ki-tô được sai đến để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,l8).274 Người tuyên bố rằng họ có phúc, “vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3); Chúa Cha đã thương mặc khải cho những kẻ “bé mọn” này điều Người giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết.275 Chúa Giê-su, từ máng cỏ cho tới thập giá, đã chia sẻ kiếp sống của những kẻ nghèo hèn; Người đã từng chịu đói,276 chịu khát,277 chịu thiếu thốn.278 Hơn thế nữa, Người tự đồng hóa mình với mọi hạng người nghèo hèn và coi lòng yêu thương tích cực đối với họ là điều kiện để được vào Nước của Người.279

5451443, 588, 1846, 1439

Chúa Giê-su mời những kẻ tội lỗi vào bàn tiệc Nước Thiên Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17).280 Người mời gọi họ hối cải, vì không hối cải thì không thể vào Nước Người, nhưng Người cũng dùng lời nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót vô biên của Cha Người đối với họ,281 và “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc l5,7). Bằng chứng cao cả nhất của tình yêu này, là việc Người dâng hiến mạng sống mình “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).

5462613, 542

Chúa Giê-su kêu gọi người ta vào Nước Trời, bằng cách dùng các dụ ngôn, là nét đặc trưng trong cách giảng dạy của Người.282 Qua các dụ ngôn, Người mời vào dự tiệc Nước Trời,283 nhưng Người cũng đòi phải có một lựa chọn triệt để: để đạt được Nước Trời, cần phải cho đi mọi sự;284 lời nói suông không đủ, cần phải có việc làm.285 Các dụ ngôn như những tấm gương đối với con người: họ đón nhận Lời Chúa chỉ như mảnh đất khô khan hay mảnh đất mầu mỡ?286 Họ làm gì với những nén bạc đã nhận?287 Chúa Giê-su và sự hiện diện của Nước Trời trong trần gian, một cách kín đáo, nằm ở trung tâm của các dụ ngôn. Cần phải tiến vào Nước Trời, nghĩa là, phải trở nên môn đệ Đức Ki-tô, mới “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13,11). Còn đối với những kẻ “ở ngoài” (Mc 4,11), mọi sự đều bí ẩn.288

Các dấu chỉ Nước Thiên Chúa (547-550)

547670, 439

Kèm theo những lời Người nói, Chúa Giê-su đã làm “những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2,22) để cho thấy Nước Trời đang hiện diện nơi Người. Chúng chứng tỏ Chúa Giê-su chính là Đấng Mê-si-a đã được tiên báo.289

548156, 2616, 574, 447

Các dấu lạ do Chúa Giê-su thực hiện minh chứng Chúa Cha đã sai Người đến.290 Chúng mời gọi ta hãy tin vào Người.291 Những ai đến với Người bằng đức tin, đức tin cho họ được điều họ thỉnh cầu.292 Lúc đó, các phép lạ củng cố lòng tin vào Người, Đấng thực hiện các công việc của Cha Người: chúng chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa.293 Nhưng chúng cũng có thể là cớ vấp ngã.294 Quả vậy, chúng không nhằm thỏa mãn trí tò mò, và lòng ưa chuộng ma thuật. Bất chấp những phép lạ hết sức tỏ tường của Người, Chúa Giê-su vẫn bị một số người loại bỏ,295 thậm chí Người còn bị tố cáo là hành động nhờ ma quỷ.296

5491503, 440

Khi giải thoát một số người khỏi những sự dữ đời này như đói khát,297 bất công,298 bệnh tật và cái chết,299 Chúa Giê-su đã thực hiện các dấu chỉ Người là Đấng Mê-si-a. Tuy nhiên, Người không đến để loại trừ mọi điều xấu khỏi trần gian này,300 nhưng để giải thoát con người khỏi ách nô lệ nặng nề nhất, là ách nô lệ của tội lỗi,301 thứ ách nô lệ này ngăn cản họ trong ơn gọi của họ là làm con cái Thiên Chúa, và gây ra mọi hình thức nô lệ giữa con người.

550394, 1673, 440, 2816

Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc nước Xa-tan bị sụp đổ:302 “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt l2,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giê-su thực hiện, giải phóng người ta khỏi quyền thống trị của ma quỷ.303 Những việc ấy báo trước sự chiến thắng cao cả của Chúa Giê-su trên “thủ lãnh thế gian này.”304 Nhờ thập giá của Đức Ki-tô mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ.”305

“Chìa khóa Nước Trời” (551-553)

551858, 765

Chúa Giê-su, khi khởi đầu đời sống công khai của Người, đã chọn Nhóm Mười Hai người đàn ông để các ông ở với Người và tham dự vào sứ vụ của Người.306 Người cho các ông tham dự vào quyền hành của Người và “sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2). Các ông được liên kết vĩnh viễn với Nước của Đức Ki-tô, bởi vì Người sẽ dùng các ông mà điều khiển Hội Thánh:

“Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22,29-30).

552880, 153, 442, 424

Trong nhóm Mười Hai, ông Simon Phê-rô giữ địa vị thứ nhất;307 Chúa Giê-su ủy thác cho ông một sứ vụ độc đáo. Nhờ Chúa Cha mặc khải, ông Phê-rô tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Lúc đó Chúa chúng ta liền tuyên bố với ông: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt l6,l8). Đức Ki-tô, “Viên đá sống động”,308 bảo đảm rằng Hội Thánh mà Người xây dựng trên Tảng Đá Phê-rô sẽ chiến thắng quyền lực tử thần. Nhờ đức tin ông đã tuyên xưng, ông Phê-rô sẽ mãi là Tảng Đá kiên vững của Hội Thánh. Ông có sứ vụ gìn giữ đức tin được toàn vẹn và làm cho các anh em mình nên vững mạnh trong đức tin.309

553881, 1445, 641, 881

Chúa Giê-su ủy thác cho ông Phê-rô một thẩm quyền đặc biệt: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Quyền chìa khoá” là quyền cai quản Nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh. Chúa Giê-su, “Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11) xác nhận nhiệm vụ đó sau khi Người phục sinh: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh. Chúa Giê-su ủy thác quyền này cho Hội Thánh qua thừa tác vụ của các Tông Đồ,310 và đặc biệt của ông Phê-rô, người duy nhất Chúa minh nhiên trao phó chìa khóa Nước Trời.

Nếm trước Nước Trời: Chúa Hiển Dung (554-556)

554697, 2600, 440

Từ ngày ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giê-su “bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết, Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Ông Phê-rô khước từ lời loan báo đó,311 các môn đệ khác cũng không hiểu gì hơn.312 Chính trong bối cảnh này, đã xảy ra biến cố kỳ diệu là cuộc Hiển Dung của Chúa Giê-su313 trên núi cao, trước mặt ba nhân chứng do Người lựa chọn, là các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Dung mạo và y phục của Chúa Giê-su trở nên chói sáng, ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người, “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Một đám mây bao phủ các Ngài và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

5552576, 2583, 257

Chúa Giê-su tỏ lộ vinh quang thần linh của mình trong chốc lát, và như vậy, Người xác nhận lời tuyên xưng của ông Phê-rô. Người cũng cho thấy rằng, để “vào trong vinh quang của Người” (Lc 24,26), Người phải đi qua thập giá tại Giê-ru-sa-lem. Ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã thấy vinh quang của Thiên Chúa trên núi; Lề luật và các Tiên tri đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mê-si-a.314 Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su đúng là do ý muốn của Chúa Cha: Chúa Con hành động với tư cách là Người Tôi Trung của Thiên Chúa.315 Đám mây nói lên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần: “Cả Ba Ngôi cùng xuất hiện, Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong nhân tính của mình, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói”:316

“Lạy Chúa Ki-tô là Thiên Chúa, Chúa đã hiển dung trên núi và, tùy theo khả năng, các môn đệ Chúa chiêm ngưỡng vinh quang Chúa, để mai sau khi thấy Chúa chịu đóng đinh thập giá, họ hiểu rằng Chúa đã tự nguyện chịu khổ hình. Rồi họ sẽ loan báo cho thế giới biết Chúa chính là vinh quang Chúa Cha chiếu toả.”317

5561003

Tại ngưỡng cửa đời sống công khai: phép rửa; tại ngưỡng cửa cuộc Vượt Qua: biến cố Hiển Dung. Qua phép rửa của Chúa Giê-su, “mầu nhiệm cuộc tái sinh lần thứ nhất” được loan báo: đó là bí tích Rửa Tội của chúng ta; Hiển Dung là “bí tích của cuộc tái sinh lần thứ hai”: đó là sự phục sinh riêng của chúng ta.318 Ngay từ bây giờ, chúng ta được tham dự vào sự phục sinh của Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong các bí tích của Thân Thể Chúa Ki-tô. Biến cố Hiển Dung cho chúng ta được nếm trước việc ngự đến trong vinh quang của Chúa Ki-tô, Đấng “sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Nhưng biến cố ấy cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).

“Khi ông Phê-rô ước ao sống với Đức Ki-tô trên núi, ông chưa hiểu gì.319 Hỡi ông Phê-rô, Chúa sẽ chỉ dành cho ông điều đó, sau khi chết. Còn hiện nay thì Chúa nói: Hãy xuống núi để chịu lao nhọc ở trần gian, để phục vụ ở trần gian, để chịu sỉ nhục, chịu đóng đinh ở trần gian. Đấng là Sự Sống, đã xuống để bị giết; Đấng là Bánh, đã xuống để chịu đói; Đấng là Đường, đã xuống để chịu mệt nhọc trên đường; Đấng là Nguồn Mạch, đã xuống để chịu khát; còn ông lại từ chối lao nhọc ư?.”320

Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem (557-558)

557

“Khi đã tới ngày Chúa Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,5l).321 Qua quyết định này, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Người lên Giê-ru-sa-lem trong tư thế sẵn sàng để chịu chết ở đó. Người đã loan báo đến ba lần cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Người.322 Khi tiến về Giê-ru-sa-lem, Người nói: “Một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được!” (Lc l3,33).

558

Chúa Giê-su gợi lại cái chết của các Tiên tri, đã bị giết ở Giê-ru-sa-lem.323 Dù sao, Người vẫn khẩn khoản kêu gọi Giê-ru-sa-lem quy tụ quanh Người: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37b). Khi nhìn thấy Giê-ru-sa-lem, Người khóc thương thành ấy324 và một lần nữa thốt lên ao ước của lòng Người: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được” (Lc 19,42).

Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (559-560)

559333, 1352

Giê-ru-sa-lem sẽ đón nhận Đấng Mê-si-a của mình như thế nào? Chúa Giê-su, Đấng luôn trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua,325 đã chọn thời điểm và chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến vào Giê-ru-sa-lem, thành của “Đa-vít, tổ tiên Người” (Lc 1,32) với tư cách là Đấng Mê-si-a.326 Người được dân chúng hoan hô như con vua Đa-vít, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosanna có nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức Vua vinh hiển” (Tv 24,7-10) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào thành: Người không chinh phục Thiếu nữ Xi-on, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng mưu mẹo hay bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự thật.327 Vì vậy, ngày hôm đó, thần dân của Nước Người là các trẻ em328 và “những người nghèo của Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như các Thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng.329 Lời tung hô của họ: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội Thánh dùng lại trong kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa.

560550, 2816

Việc Chúa Giê-su tiến vào thành Giê-ru-sa-lem tỏ cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến. Sự kiện đó, Đức Vua Mê-si-a sắp hoàn thành bằng cuộc Vượt Qua, là sự Chết và sự Sống lại của Người. Phụng vụ Hội Thánh khởi đầu Tuần Thánh bằng việc cử hành biến cố Chúa Giê-su tiến vào Giê-ru-sa-lem, trong Chúa Nhật Lễ Lá.

Tóm lược (561-570)

561

“Cả cuộc đời của Đức Ki-tô là một giáo huấn liên tục: những lúc Người thinh lặng, các dấu lạ Người làm, việc Người cầu nguyện, tấm lòng yêu thương của Người đối với con người, sự quan tâm đặc biệt của Người đối với những người bé mọn và nghèo hèn, việc Người hoàn toàn chấp nhận hiến mình trên thập giá để cứu chuộc loài người, và cuối cùng việc Người sống lại, tất cả là sự thực hiện lời Người và sự hoàn tất Mặc Khải của Người.”330

562

Các môn đệ Đức Ki-tô phải nên giống Người cho tới khi Người được thành hình trong họ.331 “Chúng ta được thâu nhận vào các mầu nhiệm của cuộc đời Người, nên đồng hình đồng dạng với Người, cùng chết và cùng sống lại với Người, cho tới khi cùng cai trị với Người.”332

563

Con người, hoặc mục đồng hoặc đạo sĩ, không thể gặp được Thiên Chúa ở trần gian này, nếu không qùy xuống trước máng cỏ Bêlem và thờ lạy Thiên Chúa ẩn mình trong sự yếu đuối của một hài nhi.

564

Chúa Giê-su, qua việc tuân phục Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se, và qua việc lao động khiêm nhường trong những năm dài ở Na-da-rét, nêu gương thánh thiện cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày trong gia đình và trong việc lao động.

565

Chúa Giê-su, ngay từ lúc khởi đầu đời sống công khai của Người, lúc Người chịu phép rửa, là “Người Tôi Trung” hoàn toàn hiến thân cho công trình Cứu Độ, công trình này sẽ được hoàn tất trong “phép rửa” là cuộc khổ nạn của Người.

566

Các cơn cám dỗ trong hoang địa cho thấy Chúa Giê-su, Đấng Mê-si-a khiêm nhường, đã chiến thắng Xa-tan nhờ việc Người gắn bó trọn vẹn với kế hoạch cứu độ theo ý muốn của Chúa Cha.

567

Đức Ki-tô đã khai mạc Nước Trời nơi trần gian. “Thật sự, Nước này chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa Ki-tô.”333 Hội Thánh là hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời. Chìa khóa Nước Trời được trao cho ông Phê-rô.

568

Cuộc Hiển Dung của Chúa Ki-tô nhằm mục đích củng cố đức tin của các Tông Đồ để chuẩn bị cho cuộc khổ nạn: việc leo lên “núi cao” chuẩn bị cho việc leo lên đồi Calvariô. Đức Ki-tô, Đầu của Hội Thánh, biểu lộ điều Thân Thể Người ao ước và là điều được phản ánh trong các bí tích: đó là “niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).334

569

Chúa Giê-su tự nguyện lên Giê-ru-sa-lem dù biết rằng tại đây Người sẽ phải chết cách khổ nhục vì sự thù nghịch của những kẻ tội lỗi.335

570

Việc Chúa Giê-su tiến vào thành Giê-ru-sa-lem cho thấy Nước Trời đang đến. Đức Vua Mê-si-a, mà trẻ em và những người có tâm hồn nghèo hèn nghênh đón, sẽ hoàn thành Nước Trời bằng cuộc Vượt Qua, là cái Chết và sự Sống lại của Người.


Chú thích

186 X. Ga 20,30.

187 X. Mc 1,1; Ga 21,24.

188 X. Lc 2,7.

189 X. Mt 27,48.

190 X. Ga 20,7.

191 X. Dt 10,5-7.

192 X. 1 Ga 4,9.

193 X. Ep 1,7; Cl 1,13-14 (Vulgata); 1 Pr 1,18-19.

194 X. 2 Cr 8,9.

195 X. Lc 2,51.

196 X. Ga 15,3.

197 X. Is 53,4.

198 X. Rm 4,25.

199 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 18, 1: SC 211,342-344 (PG 7,932).

200 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 3, 18, 7: SC 211,366 (PG 7,937); x. Id., Adversus haereses, 2, 22, 4: SC 294,220-222 (PG 7,784).

201 X. ĐGH Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptor hominis, 11: AAS 71 (1979) 278.

202 Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

203 X. Rm 15,5; Pl 2,5.

204 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 38: AAS 58 (1966) 1055.

205 X. Ga 13,15.

206 X. Lc 11,1.

207 X. Mt 5,11-12.

208 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.

209 Thánh Gio-an Eudes, Le royaume de Jésus, 3,4: Oeuvres complètes, v.1 (Vannes 1905) 310-311.

210 X. Dt 9,15.

211 X. Cv 13,24.

212 X. Mt 3,3.

213 X. Lc 7,26.

214 X. Mt 11,13.

215 X. Cv 1,22; Lc 16,16.

216 X. Lc 1,41.

217 X. Mc 6,17-29.

218 X. Kh 22,17.

219 X. Lc 2,6-7.

220 X. Lc 2,8-20.

221 Thánh Rô-ma-nô Mê-lô-đô, Kontakion, 10, In diem Nativitatis Christi, Prooemium: SC 110,50.

222 X. Mt 18,3-4.

223 X. Mt 23,12.

224 X. Ga 1,13.

225 X. Ga 1,12.

226 X. Gl 4,19.

227 X. Lễ trọng kính Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa, Điệp Ca Kinh Chiều I và II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 385 và 397.

228 X. Lc 2,21.

229 X. Gl 4,4.

230 X. Cl 2,11-13.

231 X. Lễ trọng mừng Chúa Hiển Linh, Điệp Ca kinh “Magnificat”, Kinh Chiều II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 465.

232 X. Mt 2,1.

233 X. Mt 2,2.

234 X. Ds 24,17; Kh 22,16.

235 X. Ds 24,17-19.

236 X. Ga 4,22.

237 X. Mt 2,4-6.

238 X. Thánh Lê-ô Cả, Sermo 33, 3: CCL 138,173 (PL 54,242).

239 Canh thức Vượt Qua, Lời nguyện sau bài đọc thứ III: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 277.

240 X. Lc 2,22-39.

241 X. Xh 13,12-13.

242 X. Mt 2,13-18.

243 X. Ga 15,20.

244 X. Mt 2,15.

245 X. Hs 11,1.

246 X. Gl 4,4.

247 X. Lc 2,51.

248 X. Rm 5,19.

249 ĐGH Phao-lô VI, Homilia in templo Annuntiationis beatae Mariae Virginis in Na-da-rét (5-1-1964): AAS 56 (1964) 167-168.

250 X. Lc 2,41-52.

251 X. Lc 3,23.

252 X. Cv 1,22.

253 X. Lc 3,10-14.

254 X. Mt 3,7.

255 X. Mt 21,32.

256 X. Is 53,12.

257 X. Mc 10,38; Lc 12,50.

258 X. Mt 26,39.

259 X. Lc 3,22; Is 42,1.

260 X. Ga 1,32-33; Is 11,2.

261 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 40, 9: SC 358,216 (PG 36,369).

262 Thánh Hi-la-ri-ô, In evangelium Matthaei, 2, 6: SC 254,110 (PL 9,927).

263 X. Mt 1,13.

264 X. Tv 95,10.

265 X. Mc 3,27.

266 X. Mt 16,21-23.

267 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.

268 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 5-6.

269 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.

270 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.

271 X. Mt 10,5-7.

272 X. Mt 8,11; 28,19.

273 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.

274 X. Lc 7,22.

275 X. Mt 11,25.

276 X. Mc 2,23-26;Mt 21,18.

277 X. Ga 4,6-7; 19,28.

278 X. Lc 9,58.

279 X. Mt 25,31-46.

280 X. 1 Tm 1,15.

281 X. Lc 15,11-32.

282 X. Mc 4,33-34.

283 X. Mt 22,1-14.

284 X. Mt 13,44-45.

285 X. Mt 21,28-32.

286 X. Mt 13,3-9.

287 X. Mt 25,14-30.

288 X. Mt 13,10-15.

289 X. Lc 7,18-23.

290 X. Ga 5,36; 10,25.

291 X. Ga 10,38.

292 X. Mc 5,25-34; 10,52.

293 X. Ga 10,31-38.

294 X. Mt 11,6.

295 X. Ga 11,47-48.

296 X. Mc 3,22.

297 X. Ga 6,5-15.

298 X. Lc 19,8.

299 X. Mt 11,5.

300 X. Lc 12,13-14; Ga 18,36.

301 X. Ga 8,34-36.

302 X. Mt 12,26.

303 X. Lc 8,26-39.

304 X. Ga 12,31.

305 Vênantiô Fortunatô, Hymnus “Vexilla Regis”: MGH 1/4/1, 34 (PL 88,96).

306 X. Mc 3,13-19.

307 X. Mc 3,16; 9,2; Lc 24,34; 1 Cr 15,5.

308 X. 1 Pr 2,4.

309 X. Lc 22,32.

310 X. Mt 18,18.

311 X. Mt 16,22-23.

312 X. Mt 17,23; Lc 9,45.

313 X. Mt 17,1-8; 2 Pr 1,16-18.

314 X. Lc 24,27.

315 X. Is 42,1.

316 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 45, a. 4, ad 2: Ed. Leon. 11, 433.

317 Phụng vụ Byzantin. Kontakion in die Transfigurationis: Menaia tou olou eniautou, v. 6 (Romae 1901) 341.

318 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 45, a. 4, ad 2: Ed. Leon. 11, 433.

319 X. Lc 9,23.

320 Thánh Augustinô, Sermo 78, 6: PL 38,492-493.

321 X. Ga 13,1.

322 X. Mc 8,31-33; 9,31-32; 10,32-34.

323 X. Mt 23,37a.

324 X. Lc 19,41.

325 X. Ga 6,15.

326 X. Mt 21,1-11.

327 X. Ga 18,37.

328 X. Mt 21,15-16; Tv 8,3.

329 X. Lc 19,38; 2,14.

330 ĐGH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 9: AAS 71 (1979) 1284.

331 X. Gl 4,19.

332 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.

333 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.

334 X. Thánh Lê-ô Cả, Sermo 51, 3: CCL 138A, 298-299 (PL 54,310).

335 X. Dt 12,3.

Scroll to Top