Tiết 6: Đức Ma-ri-a – Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

963484-507, 721-726

Sau khi chúng ta đã nói về nhiệm vụ của Đức Trinh Nữ diễm phúc trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô và Chúa Thánh Thần, giờ đây chúng ta phải lưu ý đến chỗ đứng của Mẹ trong mầu nhiệm Hội Thánh. “Thật vậy, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a… được nhận biết và tôn kính với tư cách là Mẹ thật của Thiên Chúa là Đấng Cứu Chuộc… Mẹ cũng ‘thật là Mẹ các chi thể của Đức Ki-tô’… bởi vì đã cộng tác bằng đức mến để các tín hữu được sinh ra trong Hội Thánh, được làm chi thể của Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh.”525 “Đức Ma-ri-a,… Mẹ Đức Ki-tô, cũng là Mẹ… Hội Thánh.”526

I. Tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a đối với Hội Thánh (964-970)
Đức Ma-ri-a hợp nhất trọn vẹn với Con mình… (964-965)

964534, 618

Nhiệm vụ của Đức Ma-ri-a đối với Hội Thánh không thể tách biệt khỏi sự hợp nhất của Mẹ với Đức Ki-tô, và trực tiếp xuất phát từ sự hợp nhất đó. “Sự liên kết của Đức Ma-ri-a với Người Con trong công cuộc cứu độ được biểu lộ từ lúc Mẹ thụ thai Đức Ki-tô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa chịu chết.”527 Trong giờ khổ nạn của Người, sự liên kết đó được biểu lộ cách đặc biệt:

“Đức Trinh Nữ diễm phúc đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, và Mẹ đã trung thành gìn giữ sự hợp nhất với Con cho đến tận thập giá, Mẹ đứng đó không ngoài kế hoạch của Thiên Chúa, Mẹ đã cùng chịu đau khổ cách khủng khiếp với Người Con Một của mình và liên kết mình với hy lễ của Người bằng tình mẫu tử, đồng thuận cách yêu thương với lễ phẩm bị sát tế do lòng Mẹ sinh ra; và cuối cùng, Mẹ được chính Đức Ki-tô Giê-su đang hấp hối trên thập giá ban làm mẹ người môn đệ, bằng những lời này: ‘Thưa Bà, đây là con Bà’ (x. Ga 19,26-27).”528

965

Đức Ma-ri-a, sau cuộc Thăng thiên của Con mình, “đã trợ giúp Hội Thánh sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình.”529 Cùng với các Tông Đồ và một số người phụ nữ khác, “chúng ta thấy… Đức Ma-ri-a cũng dùng lời cầu nguyện của mình mà khẩn cầu hồng ân là Thần Khí, Đấng đã phủ bóng trên ngài trong ngày Truyền tin.”530

… cả trong cuộc Lên trời của Mẹ… (966)

966491

“Sau cùng, Đức Trinh Nữ Vô nhiễm, được gìn giữ tinh tuyền khỏi mọi tì vết nguyên tội, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả xác cả hồn, và được Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để Mẹ được đồng hình đồng dạng cách sung mãn hơn với Con mình, là Chúa các chúa và là Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.”531 Cuộc Lên trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Ki-tô hữu khác:

“Lạy Mẹ Thiên Chúa, khi sinh con, Mẹ vẫn khiết trinh; khi yên nghỉ, Mẹ vẫn không lìa bỏ trần gian: Mẹ đã đến với Đấng là nguồn mạch sự sống, chính Mẹ, người đã cưu mang Thiên Chúa hằng sống và chính Mẹ, bằng lời khẩn cầu của Mẹ, sẽ cứu linh hồn chúng con khỏi chết.”532

… chính Mẹ là Mẹ chúng ta trong lãnh vực ân sủng (967-970)

9672679, 507

Vì sự hoàn toàn gắn bó của Mẹ với thánh ý Chúa Cha, với công trình cứu chuộc của Con mình, và với mọi tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là gương mẫu về đức tin và đức mến cho Hội Thánh. Vì vậy, chính Mẹ là “thành phần ưu việt và tuyệt đối độc nhất vô nhị của Hội Thánh”,533 và Mẹ cũng là “sự thực hiện mẫu mực”, là “điển hình” của Hội Thánh.534

968494

Nhưng nhiệm vụ của Mẹ đối với Hội Thánh và toàn thể nhân loại còn được mở rộng hơn nữa. Chính Mẹ “đã cộng tác một cách tuyệt đối độc nhất vô nhị vào công trình của Đấng Cứu Độ, bằng sự vâng phục, bằng đức tin, đức cậy và đức mến nồng nhiệt, để phục hồi sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Vì lý do đó, Mẹ là Mẹ của chúng ta trong lãnh vực ân sủng.”535

969149, 501, 1370

“Tình mẫu tử này của Đức Ma-ri-a trong Nhiệm cục ân sủng kéo dài không ngừng, khởi từ sự ưng thuận Mẹ đã trung tín bày tỏ trong cuộc Truyền tin, và chịu đựng cách không do dự dưới chân thập giá, cho tới sự hoàn tất vĩnh viễn của mọi người được tuyển chọn. Thật vậy, sau khi Mẹ được lên trời, nhiệm vụ cứu độ của Mẹ không chấm dứt, nhưng qua việc liên lỉ chuyển cầu của mình, Mẹ tiếp tục đem lại cho chúng ta những hồng ân của ơn cứu độ vĩnh cửu… Vì vậy, trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian.”536

9702008, 1545, 308

“Nhiệm vụ làm mẹ của Đức Ma-ri-a đối với loài người… không hề làm lu mờ hay suy giảm sự trung gian duy nhất của Đức Ki-tô, nhưng tỏ cho thấy uy lực của sự trung gian ấy. Thật vậy, mọi dòng chảy mang ơn cứu độ của Đức Trinh Nữ… đều bắt nguồn từ công nghiệp đầy tràn chan chứa của Đức Ki-tô, dựa trên sự trung gian của Người, hoàn toàn lệ thuộc vào sự trung gian đó, và múc lấy mọi sức mạnh từ đó.”537 “Quả vậy, không bao giờ một thụ tạo nào có thể được liệt kê cùng với Ngôi Lời nhập thể và là Đấng Cứu Chuộc; nhưng cũng như chức tư tế của Đức Ki-tô được tham dự bằng nhiều cách khác nhau hoặc bởi các thừa tác viên hoặc bởi giáo dân, và cũng như sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa thật sự được tuôn đổ bằng nhiều cách khác nhau cho các thụ tạo, thì cũng vậy, sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu Chuộc không loại bỏ nhưng khơi dậy sự cộng tác khác nhau nơi các thụ tạo, nhờ được tham dự vào một nguồn mạch duy nhất.”538

II. Việc sùng kính Đức Trinh Nữ diễm phúc (971) [2673-2679]

9711172, 2678

Hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48): “Lòng sùng kính của Hội Thánh đối với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a diễm phúc thuộc về chính bản chất của phụng tự Ki-tô Giáo.”539 Đức Trinh Nữ diễm phúc “đáng được Hội Thánh tôn vinh bằng một phụng tự đặc biệt. Thật vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Trinh Nữ diễm phúc đã được tôn kính dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó… Phụng tự đó, tuy là độc nhất vô nhị, nhưng tự bản chất vẫn khác biệt với phụng tự tôn thờ được dâng lên Ngôi Lời nhập thể, cũng như dâng lên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, và phụng tự tôn kính Đức Ma-ri-a chủ yếu là cổ võ phụng tự tôn thờ Chúa Ba Ngôi”;540 sự tôn kính đó được diễn tả trong các lễ phụng vụ dành cho Mẹ Thiên Chúa541 và trong các kinh nguyện kính Đức Ma-ri-a, như kinh Mân Côi, “bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng.”542

III. Đức Ma-ri-a – Hình ảnh cánh chung của Hội Thánh (972)

972773, 829, 2853

Sau khi đã trình bày về Hội Thánh, về nguồn gốc, sứ vụ và đích điểm của Hội Thánh, chúng ta không thể kết luận bằng cách nào tốt hơn là hướng nhìn về Đức Ma-ri-a, để nơi Mẹ, chúng ta chiêm ngắm Hội Thánh là gì trong mầu nhiệm của mình, trong “cuộc lữ hành đức tin” của mình, và Hội Thánh sẽ là gì trong quê hương tương lai, khi kết thúc cuộc hành trình của mình, ở đó, “để làm vinh danh Chúa Ba Ngôi Chí Thánh và không thể phân chia”, “trong sự hiệp thông của tất cả các Thánh”,543 có một người đang mong đợi Hội Thánh, người mà Hội Thánh tôn kính với tư cách là Mẹ của Chúa mình và là Mẹ riêng của mình.

“Cũng như ở trên trời, nơi Mẹ đã được vinh quang cả xác cả hồn, Mẹ Chúa Giê-su là hình ảnh và là khởi đầu của Hội Thánh sẽ được hoàn thành ở đời sau như thế nào, thì cũng vậy, nơi trần thế, cho đến khi ngày của Chúa đến, Mẹ sáng chói như dấu chỉ của niềm hy vọng vững chắc và niềm an ủi cho dân lữ hành của Thiên Chúa.”544

Tóm lược (973-975)

973

Đức Ma-ri-a, khi nói lời “Xin vâng” trong ngày Truyền tin và như vậy, bày tỏ sự đồng thuận của mình đối với mầu nhiệm Nhập Thể, đã cộng tác vào toàn bộ công trình Con của Mẹ phải hoàn thành. Chính ngài là Mẹ ở bất cứ nơi nào Con của Mẹ là Đấng Cứu Độ, và là Đầu của Nhiệm Thể.

974

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, được đưa cả xác cả hồn lên hưởng vinh quang thiên quốc, nơi Mẹ tham dự vào vinh quang của cuộc Phục Sinh của Con mình, thể hiện trước sự phục sinh của tất cả các chi thể của Thân Thể Người.

975

“Chúng tôi tin Mẹ rất thánh của Thiên Chúa, bà E-và mới, Mẹ Hội Thánh, giờ đây ở trên trời, vẫn tiếp tục nhiệm vụ làm mẹ đối với các chi thể của Đức Ki-tô.”545


Chú thích

525 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965) 57-58; x. Thánh Augustinô, De sancta virginitate 6, 6: CSEL 41,240 (PL 40,399).

526 ĐGH Phao-lô VI, Allocutio ad Conciliares Patres, tertia exacta Oecumenicae Synodi Sessione (21-11-1964): AAS 56 (1964) 1015.

527 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 57: AAS 57 (1965) 61.

528 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 58: AAS 57 (1965) 61-62.

529 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 69: AAS 57 (1965) 66.

530 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 59: AAS 57 (1965) 62.

531 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 59: AAS 57 (1965) 62; x. ĐGH Pi-ô XII, Tông hiến Munificentissimus Deus (1-11-1950): DS 3903.

532 Troparium in die dormitionis beatae Mariae Virginis: Opologion to mega (Romae 1876) 215.

533 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 53: AAS 57 (1965) 59.

534 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 63: AAS 57 (1965) 64.

535 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 61: AAS 57 (1965) 63.

536 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965) 63.

537 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 60: AAS 57 (1965) 62.

538 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 62: AAS 57 (1965) 63.

539 ĐGH Phao-lô VI, Tông huấn Marialis cultus 56: AAS 66 (1974) 162.

540 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 66: AAS 57 (1965) 65.

541 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 103: AAS 56 (1964) 125.

542 ĐGH Phao-lô VI, Tông huấn Marialis cultus, 42: AAS 66 (1974) 152-153.

543 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 69: AAS 57 (1965) 66-67.

544 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 68: AAS 57 (1965) 66.

545 ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 15: AAS 60 (1968) 439.

Scroll to Top