Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Kitô (512-570)
5121163
Khi đề cập đến cuộc đời Đức Kitô, Tín biểu chỉ nói về các mầu nhiệm Nhập Thể (được thụ thai và ra đời) và Vượt Qua (chịu khổ nạn, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chết, chịu mai táng, xuống ngục tổ tông, sống lại, và lên trời). Tín biểu không nói gì cách minh nhiên về các mầu nhiệm của cuộc đời ẩn dật và công khai của Chúa Giêsu; tuy nhiên, các đề mục đức tin liên quan đến việc Nhập Thể và cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu, lại làm sáng tỏ toàn bộ cuộc đời trần thế của Người. “Tất cả những việc Chúa Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1,1-2), cần phải được nhìn xem dưới ánh sáng các mầu nhiệm Giáng Sinh và Phục Sinh.
513426 / 561
Tùy theo hoàn cảnh, việc dạy giáo lý sẽ trình bày tất cả sự phong phú của các mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Ở đây, chúng tôi chỉ nêu lên một số yếu tố chung cho tất cả mọi mầu nhiệm của cuộc đời của Người (I), rồi sau đó phác họa các mầu nhiệm chính yếu trong cuộc đời ẩn dật (II) và công khai (III) của Chúa Giêsu.
I. Toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu là mầu nhiệm (514-521)
514
Có nhiều điều liên quan đến Chúa Giêsu mà loài người tò mò muốn biết, nhưng lại không được các sách Tin Mừng nói đến. Tin Mừng hầu như không nói gì về cuộc sống của Người ở Nadarét, và một phần lớn cuộc đời công khai của Người cũng không được kể lại.186 Những gì đã được viết ra trong các Tin Mừng, được kể lại là “để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
515126 / 609 / 774 / 477
Các sách Tin Mừng đã được viết ra bởi những người trong số những người đầu tiên đã có đức tin,187 và muốn cho những người khác được tham dự vào đức tin đó. Đã được biết Chúa Giêsu là ai trong đức tin, họ có thể thấy và chỉ cho người khác thấy những dấu tích của mầu nhiệm của Người trong suốt cuộc đời trần thế của Người. Từ những mảnh tã quấn thân ngày Người Giáng Sinh,188 cho đến chút giấm lúc Người chịu khổ hình,189 và tấm khăn liệm ngày Người Phục Sinh,190 mọi sự trong cuộc đời Chúa Giêsu đều là dấu chỉ của mầu nhiệm của Người. Qua những cử chỉ, những phép lạ, những lời nói của Người, Người mặc khải “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Như vậy, nhân tính của Người xuất hiện như một “bí tích”, nghĩa là, một dấu chỉ và dụng cụ của thần tính của Người, và của ơn cứu độ mà Người mang lại: những gì hữu hình trong cuộc đời trần thế của Người, dẫn chúng ta đến với mầu nhiệm vô hình, là địa vị làm Con Thiên Chúa của Người và sứ vụ cứu chuộc của Người.
Những nét chung của các mầu nhiệm của Chúa Giêsu (516-518)
51665 / 2708
Cả cuộc đời của Đức Kitô là một Mặc khải về Chúa Cha: những lời Người nói, những việc Người làm, những lúc Người im lặng, những đau khổ Người chịu, cách thế Người sống và giảng dạy. Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), và Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Vì Chúa chúng ta đã làm người để chu toàn thánh ý của Chúa Cha,191 nên ngay cả những điểm nhỏ nhặt nhất trong các mầu nhiệm của Người đều biểu lộ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.192
517606 / 1115
Cả cuộc đời của Đức Kitô là một mầu nhiệm Cứu chuộc. Ơn Cứu chuộc đến với chúng ta trước hết nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá,193 nhưng mầu nhiệm này được thực hiện qua cả cuộc đời Đức Kitô:
— ngay trong việc Người Nhập Thể, Người đã trở nên nghèo để lấy cái nghèo của Người mà làm cho chúng ta nên giàu có;194
— trong cuộc sống ẩn dật, Người vâng phục195 để sửa lại sự bất phục tùng của chúng ta;
— khi giảng dạy, lời Người nói thanh tẩy những người nghe;196
— khi chữa bệnh và trừ quỷ, “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17);197
— khi phục sinh, Người làm cho chúng ta được nên công chính.198
518668 / 2748
Cả cuộc đời của Đức Kitô là một mầu nhiệm Quy tụ: tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm, đã nói, và đã chịu đau khổ, đều có mục đích là để phục hồi con người sa ngã về lại ơn gọi đầu tiên của họ:
“Khi nhập thể và làm người, Đức Kitô đã quy tụ nơi mình lịch sử lâu dài của nhân loại, và đã đem lại ơn cứu độ cho chúng ta theo con đường tắt, để những gì xưa kia chúng ta đã mất nơi Ađam, tức là không còn là hình ảnh và giống như Thiên Chúa nữa, thì nay chúng ta được nhận lại trong Đức Kitô Giêsu.”199 “Chính vì thế, Đức Kitô đã trải qua mọi tuổi đời, để cho mọi người lại được hiệp thông với Thiên Chúa.”200
Chúng ta hiệp thông với các mầu nhiệm của Chúa Giêsu (519-521)
519793 / 602 / 1085
Mọi sự phong phú của Đức Kitô là dành cho mọi người và là tài sản của mọi người.201 Đức Kitô không sống cho bản thân Người, nhưng cho chúng ta, từ lúc Người nhập thể “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”,202 cho đến khi Người chịu chết “vì tội lỗi chúng ta” (1 Cr 15,3) và sống lại “để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25). Cả bây giờ nữa, Người vẫn là trạng sư của chúng ta “trước mặt Chúa Cha” (1 Ga 2,1), “vì Người hằng sống để chuyển cầu” cho chúng ta (Dt 7,25). Với tất cả những gì Người đã sống và đã chịu đựng một lần cho mãi mãi vì chúng ta, giờ đây Người luôn hiện diện “trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9,24) đến muôn đời.
520459 / 359 / 2607
Trong cả cuộc đời của Người, Chúa Giêsu tỏ mình là mẫu mực của chúng ta:203 chính Người là “con người hoàn hảo”,204 Người mời gọi chúng ta trở nên môn đệ của Người và bước đi theo Người; qua việc tự hạ của Người, Người ban cho chúng ta một gương mẫu để bắt chước;205 qua việc cầu nguyện của Người, Người lôi kéo chúng ta cầu nguyện;206 qua sự nghèo khó của Người, Người kêu gọi chúng ta tự nguyện chấp nhận sự thiếu thốn và những cơn bách hại.207
5212715 / 1391
Tất cả những gì chính Người đã sống, Đức Kitô làm cho chúng ta được sống những điều đó trong Người, và Người sống những điều đó trong chúng ta. “Khi nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã nên một với mọi người.”208 Chúng ta được kêu gọi nên một với Người; chính Người làm cho chúng ta, với tư cách là những chi thể của Thân Thể Người, được hiệp thông với những gì Người đã sống trong thân thể Người vì chúng ta và nên như mẫu mực cho chúng ta:
Chúng ta phải tiếp nối và hoàn thành nơi bản thân chúng ta các giai đoạn của cuộc đời Chúa Giêsu và các mầu nhiệm của Người, và thường xuyên cầu xin... để Người hoàn tất và kiện toàn những điều ấy trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người... Vì Con Thiên Chúa có ý truyền thông, mở rộng và tiếp tục các mầu nhiệm của Người trong chúng ta và trong toàn thể Hội Thánh Người,... hoặc bằng các ân sủng Người quyết định ban cho chúng ta hoặc bằng những hiệu quả Người muốn thực hiện nơi chúng ta qua các mầu nhiệm ấy. Bằng cách này, Người muốn hoàn tất các mầu nhiệm của Người trong chúng ta.209
II. Các mầu nhiệm của thời thơ ấu và của cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu (522-534)
Những sự chuẩn bị (522-524)
522711 / 762
Việc Con Thiên Chúa ngự đến trong thế gian là một biến cố hết sức trọng đại, đến độ Thiên Chúa đã muốn chuẩn bị cho biến cố đó qua nhiều thế kỷ. Các nghi thức và các hy lễ, các hình ảnh và các biểu tượng của “Giao Ước Cũ”,210 tất cả đều được Thiên Chúa làm cho hội tụ trong Đức Kitô: Chính Ngài loan báo Đức Kitô qua miệng các Tiên tri kế tiếp nhau ở Ítraen. Ngoài ra, Ngài còn khơi dậy trong tâm hồn các người ngoại giáo một sự chờ đợi chưa rõ ràng việc Con Thiên Chúa ngự đến.
523717-720
Thánh Gioan Tẩy Giả là vị Tiền Hô trực tiếp của Chúa,211 đã được sai đến để dọn đường.212 Thánh nhân là “ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc 1,76), trổi vượt tất cả mọi Tiên tri,213 và là vị Tiên tri cuối cùng.214 Thánh nhân khởi đầu Tin Mừng;215 ngay từ trong lòng mẹ đã đón chào Đức Kitô đến,216 và tìm thấy niềm vui trong việc được làm “bạn của chú rể” (Ga 3,29), Đấng mà thánh nhân chỉ cho biết là Chiên “Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Thánh nhân đi trước Chúa Giêsu trong “thần trí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1,17), và làm chứng cho Người bằng lời rao giảng của mình, bằng phép rửa thống hối của mình và cuối cùng bằng cuộc tử đạo của mình.217
5241171
Mỗi năm khi cử hành phụng vụ Mùa Vọng, Hội Thánh thể hiện lại niềm mong đợi Đấng Mêsia: khi hiệp thông với sự chuẩn bị lâu dài để đón Đấng Cứu độ ngự đến lần thứ nhất, các tín hữu canh tân lòng sốt sắng đón chờ Người ngự đến lần thứ hai.218 Khi mừng sinh nhật và cuộc tử đạo của vị Tiền Hô, Hội Thánh hợp nhất với ước nguyện của thánh nhân: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Mầu nhiệm Giáng Sinh (525-526)
525437 / 2443
Chúa Giêsu đã ra đời trong cảnh bần hàn của chuồng bò lừa, trong một gia đình nghèo;219 các mục đồng chất phác là những chứng nhân đầu tiên của biến cố. Chính trong cảnh nghèo hèn này mà vinh quang thiên quốc được tỏ lộ.220 Hội Thánh không ngừng hoan hỉ hát mừng vinh quang đêm ấy:
“Hôm nay Đức Trinh Nữ sinh hạ Đấng Hằng Hữu,
và thế gian dâng tặng hang đá cho Đấng Chí Tôn.
Các Thiên thần cùng với các mục đồng tôn vinh Người,
các đạo sĩ tiến bước theo ánh sao:
bởi vì một Hài Nhi bé nhỏ, là Thiên Chúa vĩnh cửu,
đã được sinh ra cho chúng ta!”221
526460
“Trở nên trẻ nhỏ” trong tương quan với Thiên Chúa là điều kiện để vào Nước Trời;222 để được vậy, cần phải tự hạ,223 phải trở nên bé mọn; hơn nữa, còn phải “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3,7), được sinh ra từ Thiên Chúa224 để trở nên con cái Thiên Chúa.225 Mầu nhiệm Giáng Sinh được thực hiện nơi chúng ta khi Đức Kitô “được thành hình” nơi chúng ta.226 Việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu là mầu nhiệm của “việc trao đổi kỳ diệu” này:
“Cuộc trao đổi sao mà kỳ diệu! Đấng Tạo hóa của nhân loại, nhận lấy một thân xác có linh hồn, khấng hạ sinh bởi một Trinh Nữ; khi làm người mà chẳng cần mầm giống nam nhân, Người đã rộng ban cho chúng ta thần tính của Người.”227
Các mầu nhiệm của thời thơ ấu của Chúa Giêsu (527-530)
527580 / 1214
Việc cắt bì cho Chúa Giêsu, ngày thứ tám sau khi Người ra đời,228 là dấu chỉ việc Người được tháp nhập vào dòng dõi của tổ phụ Ápraham, vào dân của Giao Ước, là dấu chỉ sự suy phục Lề luật của Người,229 của việc Người đến với phụng tự Ítraen, nền phụng tự mà Người sẽ tham dự suốt đời Người. Dấu chỉ này báo trước “phép cắt bì của Đức Kitô”, tức là bí tích Rửa Tội.230
528439 / 711-716 / 122
Hiển Linh là sự tỏ mình ra của Chúa Giêsu, như Đấng Mêsia của Ítraen, là Con Thiên Chúa, và là Đấng Cứu Độ trần gian. Cùng với việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan và với tiệc cưới Cana,231 lễ này mừng kính việc “các đạo sĩ” từ phương Đông đến thờ lạy Chúa Giêsu.232 Nơi các “đạo sĩ” này, là đại diện cho các tôn giáo lương dân lân cận, Tin Mừng nhận ra những hoa quả đầu mùa của các dân tộc sẽ đón nhận Tin Mừng cứu độ nhờ mầu nhiệm Nhập Thể. Việc các đạo sĩ đến Giêrusalem để bái lạy Vua dân Do Thái233 cho thấy các vị ấy đến Ítraen, dưới ánh sáng tiên báo Đấng Mêsia của ngôi sao Đavít,234 để tìm kiếm Đấng sẽ là vua của các dân tộc.235 Việc họ đến có nghĩa là các dân ngoại chỉ có thể gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Người là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ trần gian, bằng cách hướng về dân Do Thái236 và nhờ dân ấy mà lãnh nhận lời hứa về Đấng Mêsia như đã được ghi chép trong Cựu Ước.237 Cuộc Hiển Linh cho thấy đông đảo dân ngoại được gia nhập vào gia đình của các Tổ Phụ,238 và được hưởng “phẩm giá của Ítraen.”239
529583 / 439 / 614
Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ240 cho thấy Người có tư cách là “con đầu lòng” thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng của Ngài.241 Cùng với ông Simêon và bà Anna, toàn thể dân Ítraen đến gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (truyền thống Byzantin gọi biến cố này như vậy). Chúa Giêsu được nhìn nhận là Đấng Mêsia được mong đợi đã quá lâu, là “ánh sáng muôn dân”, là “vinh quang của Ítraen”, nhưng cũng là “dấu hiệu cho người đời chống báng.” Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho Đức Maria, loan báo một việc dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất, là việc dâng hiến trên thập giá, việc dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa “đã dành sẵn cho muôn dân.”
530574
Việc trốn sang Ai Cập và sự kiện tàn sát trẻ vô tội242 cho thấy sự chống đối của bóng tối đối với ánh sáng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Cả cuộc đời của Đức Kitô sẽ được ghi dấu bằng sự bách hại. Những ai thuộc về Người, đều tham dự vào điều đó với Người.243 Việc Người rời bỏ Ai Cập để trở về244 gợi nhớ cuộc Xuất Hành245 và giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng giải phóng tối hậu.
Các mầu nhiệm của quãng đời ẩn dật của Chúa Giêsu (531-534)
5312427
Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do Thái giáo,246 một cuộc sống trong cộng đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mặc khải là Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ Người247 và “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
5322214-2220 / 612
Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự vâng phục con thảo của Người đối với Cha trên trời của Người. Việc Chúa Giêsu hằng ngày vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria loan báo và tham dự trước vào sự tuân phục của lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện...” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Kitô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông Ađam đã phá hủy vì bất tuân.248
5332712 / 2204 / 2427
Cuộc đời ẩn dật ở Nadarét cho phép mọi người hiệp thông với Chúa Giêsu qua những lối sống thông thường nhất:
“Ngôi nhà Nadarét là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giêsu; đây là trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn... Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Nadarét dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình là gì... Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Nadarét, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc... Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ.”249
534583 / 2599 / 964
Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ250 là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình thường.
III. Các mầu nhiệm của cuộc đời công khai của Chúa Giêsu (535-560)
Chúa Giêsu chịu phép rửa (535-537)
535719-720 / 701 / 438
Chúa Giêsu khởi đầu251 quãng đời công khai bằng việc Người chịu phép rửa của ông Gioan tại sông Giođan.252 Ông Gioan rao giảng “phép rửa tỏ lòng thống hối để được ơn tha tội” (Lc 3,3). Đông đảo những người tội lỗi, thu thuế, binh lính,253 Pharisêu và Xađốc,254 cùng những cô gái điếm,255 đến xin ông làm phép rửa. “Bấy giờ Chúa Giêsu đến.” Vị Tẩy Giả ngần ngại, nhưng Chúa Giêsu yêu cầu: Người chịu phép rửa. Lúc đó, Chúa Thánh Thần, lấy hình chim bồ câu, ngự xuống trên Chúa Giêsu, và có tiếng phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta” (Mt 3,13-17). Đây là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra (“Hiển Linh”) với tư cách là Đấng Mêsia của Ítraen và là Con Thiên Chúa.
536606 / 1224 / 444 / 727 / 739
Phép Rửa của Chúa Giêsu, về phần Người, là sự chấp nhận và khởi đầu sứ vụ của Người, với tư cách là Người Tôi Trung Đau Khổ. Người chấp nhận bị liệt vào hàng tội nhân.256 Chính Người là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29); nay Người tham dự trước vào “phép rửa” là cái chết đẫm máu của Người.257 Người đến để chu toàn “đức công chính” (Mt 3,15), nghĩa là, Người hoàn toàn quy phục thánh ý của Cha Người: vì tình yêu, Người bằng lòng chịu phép rửa là cái chết để chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi.258 Đáp lại sự chấp nhận ấy, có tiếng của Chúa Cha tuyên bố Ngài hoàn toàn hài lòng về Con của mình.259 Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu đã có đầy tràn từ lúc được Người được thụ thai, nay đến để “ở lại” trên Người.260 Chúa Giêsu sẽ là nguồn mạch ban Thánh Thần cho toàn thể nhân loại. Trong phép rửa của Người, “các tầng trời”, mà tội của ông Ađam đã đóng lại, nay được “mở ra cho Người” (Mt 3,16); và dòng nước nhờ việc Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần ngự xuống được thánh hóa, để chuẩn bị cho một công trình tạo dựng mới.
5371262 / 628
Kitô hữu, nhờ bí tích Rửa Tội, được đồng hóa một cách bí tích với Chúa Giêsu, Đấng, trong phép rửa của mình, đã tham dự trước vào cái Chết và sự Sống Lại của mình; họ phải tiến vào mầu nhiệm của sự khiêm tốn quy phục và thống hối này, bước xuống nước cùng với Chúa Giêsu để cùng với Người bước lên, và phải được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần để trở nên con yêu dấu của Chúa Cha trong Chúa Con và “sống một đời sống mới” (Rm 6,4):
“Chúng ta hãy cùng chịu mai táng với Đức Kitô bằng Phép Rửa, để cùng được phục sinh với Người; hãy cùng bước xuống với Người, để đồng thời cũng được nâng lên; chúng ta hãy cùng đi lên với Người, để đồng thời cũng được tôn vinh.”261
“Nhờ những gì đã được hoàn thành nơi Đức Kitô, chúng ta biết rằng: sau khi chúng ta được tẩy rửa trong nước và Chúa Thánh Thần từ trời ngự xuống trên chúng ta, thì chúng ta được xức dầu vinh quang thiên quốc và trở thành con cái Thiên Chúa nhờ có tiếng của Chúa Cha nhận cho làm nghĩa tử.”262
Chúa Giêsu chịu cám dỗ (538-540)
538394 / 518
Các sách Tin Mừng có nói đến một thời gian Chúa Giêsu sống cô tịch trong hoang địa, ngay sau khi Người nhận phép rửa của ông Gioan. “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa” (Mc 1,12) và Chúa Giêsu ở lại đó bốn mươi ngày không ăn; Người sống giữa các dã thú và các Thiên thần hầu hạ Người.263 Cuối thời gian này, Xatan cám dỗ Người ba lần nhằm đặt vấn đề về thái độ con thảo của Người đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đẩy lui các cuộc tấn công này, chúng thu tóm cơn cám dỗ của ông Ađam trong vườn địa đàng và những cơn cám dỗ của dân Ítraen trong hoang địa, rồi ma quỷ bỏ Người mà đi, “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13).
539397 / 385 / 609
Các tác giả Tin Mừng nêu rõ ý nghĩa cứu độ của biến cố bí nhiệm này. Chúa Giêsu là Ađam mới, Người vững lòng trung thành ở chỗ Ađam cũ đã đầu hàng cơn cám dỗ. Chúa Giêsu thực hiện cách hoàn hảo ơn gọi của dân Ítraen: trái hẳn với những kẻ xưa kia đã thách thức Thiên Chúa suốt bốn mươi năm trong hoang địa,264 Chúa Giêsu được mặc khải như Người Tôi Trung của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Trong việc này, Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ: Người đã trói kẻ mạnh và thu lại tài sản nó đã cướp.265 Chiến thắng của Chúa Giêsu trước kẻ cám dỗ trong hoang địa báo trước chiến thắng của cuộc khổ nạn, là sự vâng phục tuyệt đối trong tình yêu con thảo của Người đối với Chúa Cha.
5402119 / 519 / 2849 / 1438
Cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu cho thấy cách thế Con Thiên Chúa là Đấng Mêsia, trái ngược hẳn điều Xatan xúi giục Người và người ta muốn gán cho Người.266 Chính vì thế, Đức Kitô chiến thắng Tên cám dỗ là chiến thắng cho chúng ta: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Mỗi năm, qua bốn mươi ngày Mùa Chay, Hội Thánh kết hợp với mầu nhiệm Chúa Giêsu trong hoang địa.
“Nước Thiên Chúa đã đến gần” (541-542)
5412816 / 763 / 669 / 768 / 865
“Sau khi ông Gioan bị nộp, Chúa Giêsu đến miền Galilê, rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: ‘Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’” (Mc 1,14-15). “Để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đức Kitô đã khởi đầu Nước Trời nơi trần gian.”267 Và thánh ý Chúa Cha là “nâng loài người lên, cho họ được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa.”268 Thiên Chúa thực hiện điều này bằng cách quy tụ người ta quanh Con của Ngài, là Chúa Giêsu Kitô. Cộng đồng được quy tụ này, chính là Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Thiên Chúa” trên trần gian.269
5422233 / 789
Đức Kitô là trung tâm của cộng đồng nhân loại này trong “gia đình của Thiên Chúa.” Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu chỉ biểu lộ Nước Thiên Chúa, bằng việc sai phái các môn đệ của Người. Người sẽ làm cho Nước Người đến, chủ yếu nhờ mầu nhiệm cao cả là cuộc Vượt Qua của Người, tức là cái Chết trên thập giá và sự Sống lại của Người. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Mọi người đều được mời gọi tham dự vào sự kết hợp này với Đức Kitô.270
Chúa Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa (543-546)
543764
Mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa. Nước này của Đấng Mêsia trước tiên được loan báo cho con cái Ítraen,271 nhưng hướng đến việc đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc.272 Để vào Nước Thiên Chúa, cần phải đón nhận lời của Chúa Giêsu:
“Lời Chúa được ví như hạt giống gieo trong ruộng: ai nghe Lời Chúa với đức tin và gia nhập đàn chiên nhỏ của Đức Kitô, thì đã đón nhận chính Nước Người; rồi do sức của nó, hạt giống nẩy mầm và lớn lên cho tới mùa gặt.”273
544709 / 2443 / 2546
Nước Thiên Chúa thuộc về những người nghèo hèn và bé mọn, nghĩa là, những người đón nhận Nước ấy với tâm hồn khiêm tốn. Đức Kitô được sai đến để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18).274 Người tuyên bố rằng họ có phúc, “vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3); Chúa Cha đã thương mặc khải cho những kẻ “bé mọn” này điều Người giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết.275 Chúa Giêsu, từ máng cỏ cho tới thập giá, đã chia sẻ kiếp sống của những kẻ nghèo hèn; Người đã từng chịu đói,276 chịu khát,277 chịu thiếu thốn.278 Hơn thế nữa, Người tự đồng hóa mình với mọi hạng người nghèo hèn và coi lòng yêu thương tích cực đối với họ là điều kiện để được vào Nước của Người.279
5451443 / 588 / 1846 / 1439
Chúa Giêsu mời những kẻ tội lỗi vào bàn tiệc Nước Thiên Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17).280 Người mời gọi họ hối cải, vì không hối cải thì không thể vào Nước Người, nhưng Người cũng dùng lời nói và hành động cho họ thấy lòng thương xót vô biên của Cha Người đối với họ,281 và “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,7). Bằng chứng cao cả nhất của tình yêu này, là việc Người dâng hiến mạng sống mình “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
5462613 / 542
Chúa Giêsu kêu gọi người ta vào Nước Trời, bằng cách dùng các dụ ngôn, là nét đặc trưng trong cách giảng dạy của Người.282 Qua các dụ ngôn, Người mời vào dự tiệc Nước Trời,283 nhưng Người cũng đòi phải có một lựa chọn triệt để: để đạt được Nước Trời, cần phải cho đi mọi sự;284 lời nói suông không đủ, cần phải có việc làm.285 Các dụ ngôn như những tấm gương đối với con người: họ đón nhận Lời Chúa chỉ như mảnh đất khô khan hay mảnh đất mầu mỡ?286 Họ làm gì với những nén bạc đã nhận?287 Chúa Giêsu và sự hiện diện của Nước Trời trong trần gian, một cách kín đáo, nằm ở trung tâm của các dụ ngôn. Cần phải tiến vào Nước Trời, nghĩa là, phải trở nên môn đệ Đức Kitô, mới “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” (Mt 13,11). Còn đối với những kẻ “ở ngoài” (Mc 4,11), mọi sự đều bí ẩn.288
Các dấu chỉ Nước Thiên Chúa (547-550)
547670 / 439
Kèm theo những lời Người nói, Chúa Giêsu đã làm “những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2,22) để cho thấy Nước Trời đang hiện diện nơi Người. Chúng chứng tỏ Chúa Giêsu chính là Đấng Mêsia đã được tiên báo.289
548156 / 2616 / 574 / 447
Các dấu lạ do Chúa Giêsu thực hiện minh chứng Chúa Cha đã sai Người đến.290 Chúng mời gọi ta hãy tin vào Người.291 Những ai đến với Người bằng đức tin, đức tin cho họ được điều họ thỉnh cầu.292 Lúc đó, các phép lạ củng cố lòng tin vào Người, Đấng thực hiện các công việc của Cha Người: chúng chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa.293 Nhưng chúng cũng có thể là cớ vấp ngã.294 Quả vậy, chúng không nhằm thỏa mãn trí tò mò, và lòng ưa chuộng ma thuật. Bất chấp những phép lạ hết sức tỏ tường của Người, Chúa Giêsu vẫn bị một số người loại bỏ,295 thậm chí Người còn bị tố cáo là hành động nhờ ma quỷ.296
5491503 / 440
Khi giải thoát một số người khỏi những sự dữ đời này như đói khát,297 bất công,298 bệnh tật và cái chết,299 Chúa Giêsu đã thực hiện các dấu chỉ Người là Đấng Mêsia. Tuy nhiên, Người không đến để loại trừ mọi điều xấu khỏi trần gian này,300 nhưng để giải thoát con người khỏi ách nô lệ nặng nề nhất, là ách nô lệ của tội lỗi,301 thứ ách nô lệ này ngăn cản họ trong ơn gọi của họ là làm con cái Thiên Chúa, và gây ra mọi hình thức nô lệ giữa con người.
550394 / 1673 / 440 / 2816
Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc nước Xatan bị sụp đổ:302 “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giêsu thực hiện, giải phóng người ta khỏi quyền thống trị của ma quỷ.303 Những việc ấy báo trước sự chiến thắng cao cả của Chúa Giêsu trên “thủ lãnh thế gian này.”304 Nhờ thập giá của Đức Kitô mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ.”305
“Chìa khóa Nước Trời” (551-553)
551858 / 765
Chúa Giêsu, khi khởi đầu đời sống công khai của Người, đã chọn Nhóm Mười Hai người đàn ông để các ông ở với Người và tham dự vào sứ vụ của Người.306 Người cho các ông tham dự vào quyền hành của Người và “sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2). Các ông được liên kết vĩnh viễn với Nước của Đức Kitô, bởi vì Người sẽ dùng các ông mà điều khiển Hội Thánh:
“Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ítraen” (Lc 22,29-30).
552880 / 153 / 442 / 424
Trong nhóm Mười Hai, ông Simon Phêrô giữ địa vị thứ nhất;307 Chúa Giêsu ủy thác cho ông một sứ vụ độc đáo. Nhờ Chúa Cha mặc khải, ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Lúc đó Chúa chúng ta liền tuyên bố với ông: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Đức Kitô, “Viên đá sống động”,308 bảo đảm rằng Hội Thánh mà Người xây dựng trên Tảng Đá Phêrô sẽ chiến thắng quyền lực tử thần. Nhờ đức tin ông đã tuyên xưng, ông Phêrô sẽ mãi là Tảng Đá kiên vững của Hội Thánh. Ông có sứ vụ gìn giữ đức tin được toàn vẹn và làm cho các anh em mình nên vững mạnh trong đức tin.309
553881 / 1445 / 641 / 881
Chúa Giêsu ủy thác cho ông Phêrô một thẩm quyền đặc biệt: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Quyền chìa khoá” là quyền cai quản Nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh. Chúa Giêsu, “Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11) xác nhận nhiệm vụ đó sau khi Người phục sinh: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh. Chúa Giêsu ủy thác quyền này cho Hội Thánh qua thừa tác vụ của các Tông Đồ,310 và đặc biệt của ông Phêrô, người duy nhất Chúa minh nhiên trao phó chìa khóa Nước Trời.
Nếm trước Nước Trời: Chúa Hiển Dung (554-556)
554697 / 2600 / 440
Từ ngày ông Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu “bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết, Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ..., rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Ông Phêrô khước từ lời loan báo đó,311 các môn đệ khác cũng không hiểu gì hơn.312 Chính trong bối cảnh này, đã xảy ra biến cố kỳ diệu là cuộc Hiển Dung của Chúa Giêsu313 trên núi cao, trước mặt ba nhân chứng do Người lựa chọn, là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dung mạo và y phục của Chúa Giêsu trở nên chói sáng, ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người, “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Một đám mây bao phủ các Ngài và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
5552576 / 2583 / 257
Chúa Giêsu tỏ lộ vinh quang thần linh của mình trong chốc lát, và như vậy, Người xác nhận lời tuyên xưng của ông Phêrô. Người cũng cho thấy rằng, để “vào trong vinh quang của Người” (Lc 24,26), Người phải đi qua thập giá tại Giêrusalem. Ông Môsê và ông Êlia đã thấy vinh quang của Thiên Chúa trên núi; Lề luật và các Tiên tri đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.314 Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đúng là do ý muốn của Chúa Cha: Chúa Con hành động với tư cách là Người Tôi Trung của Thiên Chúa.315 Đám mây nói lên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần: “Cả Ba Ngôi cùng xuất hiện, Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong nhân tính của mình, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói”:316
“Lạy Chúa Kitô là Thiên Chúa, Chúa đã hiển dung trên núi và, tùy theo khả năng, các môn đệ Chúa chiêm ngưỡng vinh quang Chúa, để mai sau khi thấy Chúa chịu đóng đinh thập giá, họ hiểu rằng Chúa đã tự nguyện chịu khổ hình. Rồi họ sẽ loan báo cho thế giới biết Chúa chính là vinh quang Chúa Cha chiếu toả.”317
5561003
Tại ngưỡng cửa đời sống công khai: phép rửa; tại ngưỡng cửa cuộc Vượt Qua: biến cố Hiển Dung. Qua phép rửa của Chúa Giêsu, “mầu nhiệm cuộc tái sinh lần thứ nhất” được loan báo: đó là bí tích Rửa Tội của chúng ta; Hiển Dung là “bí tích của cuộc tái sinh lần thứ hai”: đó là sự phục sinh riêng của chúng ta.318 Ngay từ bây giờ, chúng ta được tham dự vào sự phục sinh của Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong các bí tích của Thân Thể Chúa Kitô. Biến cố Hiển Dung cho chúng ta được nếm trước việc ngự đến trong vinh quang của Chúa Kitô, Đấng “sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Nhưng biến cố ấy cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22).
“Khi ông Phêrô ước ao sống với Đức Kitô trên núi, ông chưa hiểu gì.319 Hỡi ông Phêrô, Chúa sẽ chỉ dành cho ông điều đó, sau khi chết. Còn hiện nay thì Chúa nói: Hãy xuống núi để chịu lao nhọc ở trần gian, để phục vụ ở trần gian, để chịu sỉ nhục, chịu đóng đinh ở trần gian. Đấng là Sự Sống, đã xuống để bị giết; Đấng là Bánh, đã xuống để chịu đói; Đấng là Đường, đã xuống để chịu mệt nhọc trên đường; Đấng là Nguồn Mạch, đã xuống để chịu khát; còn ông lại từ chối lao nhọc ư?.”320
Chúa Giêsu lên Giêrusalem (557-558)
557
“Khi đã tới ngày Chúa Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9,51).321 Qua quyết định này, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người lên Giêrusalem trong tư thế sẵn sàng để chịu chết ở đó. Người đã loan báo đến ba lần cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Người.322 Khi tiến về Giêrusalem, Người nói: “Một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được!” (Lc 13,33).
558
Chúa Giêsu gợi lại cái chết của các Tiên tri, đã bị giết ở Giêrusalem.323 Dù sao, Người vẫn khẩn khoản kêu gọi Giêrusalem quy tụ quanh Người: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37b). Khi nhìn thấy Giêrusalem, Người khóc thương thành ấy324 và một lần nữa thốt lên ao ước của lòng Người: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được” (Lc 19,42).
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia (559-560)
559333 / 1352
Giêrusalem sẽ đón nhận Đấng Mêsia của mình như thế nào? Chúa Giêsu, Đấng luôn trốn tránh mọi ý đồ của dân chúng muốn tôn Người làm vua,325 đã chọn thời điểm và chuẩn bị kỹ lưỡng để tiến vào Giêrusalem, thành của “Đavít, tổ tiên Người” (Lc 1,32) với tư cách là Đấng Mêsia.326 Người được dân chúng hoan hô như con vua Đavít, như Đấng mang lại ơn cứu độ (Hosanna có nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ!”). Nhưng “Đức Vua vinh hiển” (Tv 24,7-10) lại “ngồi trên lưng lừa con” (Dcr 9,9) tiến vào thành: Người không chinh phục Thiếu nữ Xion, hình ảnh của Hội Thánh Người, bằng mưu mẹo hay bằng bạo lực, nhưng bằng sự khiêm tốn, là bằng chứng của sự thật.327 Vì vậy, ngày hôm đó, thần dân của Nước Người là các trẻ em328 và “những người nghèo của Thiên Chúa”, họ tung hô Người giống như các Thiên thần đã loan báo Người cho các mục đồng.329 Lời tung hô của họ: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Tv 118,26) được Hội Thánh dùng lại trong kinh “Thánh! Thánh! Thánh!” để mở đầu phụng vụ Thánh Thể tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa.
560550 / 2816
Việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem tỏ cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến. Sự kiện đó, Đức Vua Mêsia sắp hoàn thành bằng cuộc Vượt Qua, là sự Chết và sự Sống lại của Người. Phụng vụ Hội Thánh khởi đầu Tuần Thánh bằng việc cử hành biến cố Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, trong Chúa Nhật Lễ Lá.
Tóm lược (561-570)
561
“Cả cuộc đời của Đức Kitô là một giáo huấn liên tục: những lúc Người thinh lặng, các dấu lạ Người làm, việc Người cầu nguyện, tấm lòng yêu thương của Người đối với con người, sự quan tâm đặc biệt của Người đối với những người bé mọn và nghèo hèn, việc Người hoàn toàn chấp nhận hiến mình trên thập giá để cứu chuộc loài người, và cuối cùng việc Người sống lại, tất cả là sự thực hiện lời Người và sự hoàn tất Mặc Khải của Người.”330
562
Các môn đệ Đức Kitô phải nên giống Người cho tới khi Người được thành hình trong họ.331 “Chúng ta được thâu nhận vào các mầu nhiệm của cuộc đời Người, nên đồng hình đồng dạng với Người, cùng chết và cùng sống lại với Người, cho tới khi cùng cai trị với Người.”332
563
Con người, hoặc mục đồng hoặc đạo sĩ, không thể gặp được Thiên Chúa ở trần gian này, nếu không qùy xuống trước máng cỏ Bêlem và thờ lạy Thiên Chúa ẩn mình trong sự yếu đuối của một hài nhi.
564
Chúa Giêsu, qua việc tuân phục Đức Maria và thánh Giuse, và qua việc lao động khiêm nhường trong những năm dài ở Nadarét, nêu gương thánh thiện cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày trong gia đình và trong việc lao động.
565
Chúa Giêsu, ngay từ lúc khởi đầu đời sống công khai của Người, lúc Người chịu phép rửa, là “Người Tôi Trung” hoàn toàn hiến thân cho công trình Cứu Độ, công trình này sẽ được hoàn tất trong “phép rửa” là cuộc khổ nạn của Người.
566
Các cơn cám dỗ trong hoang địa cho thấy Chúa Giêsu, Đấng Mêsia khiêm nhường, đã chiến thắng Xatan nhờ việc Người gắn bó trọn vẹn với kế hoạch cứu độ theo ý muốn của Chúa Cha.
567
Đức Kitô đã khai mạc Nước Trời nơi trần gian. “Thật sự, Nước này chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Chúa Kitô.”333 Hội Thánh là hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời. Chìa khóa Nước Trời được trao cho ông Phêrô.
568
Cuộc Hiển Dung của Chúa Kitô nhằm mục đích củng cố đức tin của các Tông Đồ để chuẩn bị cho cuộc khổ nạn: việc leo lên “núi cao” chuẩn bị cho việc leo lên đồi Calvariô. Đức Kitô, Đầu của Hội Thánh, biểu lộ điều Thân Thể Người ao ước và là điều được phản ánh trong các bí tích: đó là “niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27).334
569
Chúa Giêsu tự nguyện lên Giêrusalem dù biết rằng tại đây Người sẽ phải chết cách khổ nhục vì sự thù nghịch của những kẻ tội lỗi.335
570
Việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem cho thấy Nước Trời đang đến. Đức Vua Mêsia, mà trẻ em và những người có tâm hồn nghèo hèn nghênh đón, sẽ hoàn thành Nước Trời bằng cuộc Vượt Qua, là cái Chết và sự Sống lại của Người.
Chú thích
186 X. Ga 20,30.
187 X. Mc 1,1; Ga 21,24.
188 X. Lc 2,7.
189 X. Mt 27,48.
190 X. Ga 20,7.
191 X. Dt 10,5-7.
192 X. 1 Ga 4,9.
193 X. Ep 1,7; Cl 1,13-14 (Vulgata); 1 Pr 1,18-19.
194 X. 2 Cr 8,9.
195 X. Lc 2,51.
196 X. Ga 15,3.
197 X. Is 53,4.
198 X. Rm 4,25.
199 Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 18, 1: SC 211,342-344 (PG 7,932).
200 Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 18, 7: SC 211,366 (PG 7,937); x. Id., Adversus haereses, 2, 22, 4: SC 294,220-222 (PG 7,784).
201 X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor hominis, 11: AAS 71 (1979) 278.
202 Tín biểu Nicêa - Constantinôpôli: DS 150.
203 X. Rm 15,5; Pl 2,5.
204 CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 38: AAS 58 (1966) 1055.
205 X. Ga 13,15.
206 X. Lc 11,1.
207 X. Mt 5,11-12.
208 CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 22: AAS 58 (1966) 1042.
209 Thánh Gioan Eudes, Le royaume de Jésus, 3,4: Oeuvres complètes, v.1 (Vannes 1905) 310-311.
210 X. Dt 9,15.
211 X. Cv 13,24.
212 X. Mt 3,3.
213 X. Lc 7,26.
214 X. Mt 11,13.
215 X. Cv 1,22; Lc 16,16.
216 X. Lc 1,41.
217 X. Mc 6,17-29.
218 X. Kh 22,17.
219 X. Lc 2,6-7.
220 X. Lc 2,8-20.
221 Thánh Rôma-nô Mêlôđô, Kontakion, 10, In diem Nativitatis Christi, Prooemium: SC 110,50.
222 X. Mt 18,3-4.
223 X. Mt 23,12.
224 X. Ga 1,13.
225 X. Ga 1,12.
226 X. Gl 4,19.
227 X. Lễ trọng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Điệp Ca Kinh Chiều I và II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 385 và 397.
228 X. Lc 2,21.
229 X. Gl 4,4.
230 X. Cl 2,11-13.
231 X. Lễ trọng mừng Chúa Hiển Linh, Điệp Ca kinh “Magnificat”, Kinh Chiều II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 465.
232 X. Mt 2,1.
233 X. Mt 2,2.
234 X. Ds 24,17; Kh 22,16.
235 X. Ds 24,17-19.
236 X. Ga 4,22.
237 X. Mt 2,4-6.
238 X. Thánh Lêô Cả, Sermo 33, 3: CCL 138,173 (PL 54,242).
239 Canh thức Vượt Qua, Lời nguyện sau bài đọc thứ III: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 277.
240 X. Lc 2,22-39.
241 X. Xh 13,12-13.
242 X. Mt 2,13-18.
243 X. Ga 15,20.
244 X. Mt 2,15.
245 X. Hs 11,1.
246 X. Gl 4,4.
247 X. Lc 2,51.
248 X. Rm 5,19.
249 ĐGH Phaolô VI, Homilia in templo Annuntiationis beatae Mariae Virginis in Nadarét (5-1-1964): AAS 56 (1964) 167-168.
250 X. Lc 2,41-52.
251 X. Lc 3,23.
252 X. Cv 1,22.
253 X. Lc 3,10-14.
254 X. Mt 3,7.
255 X. Mt 21,32.
256 X. Is 53,12.
257 X. Mc 10,38; Lc 12,50.
258 X. Mt 26,39.
259 X. Lc 3,22; Is 42,1.
260 X. Ga 1,32-33; Is 11,2.
261 Thánh Grêgôriô thành Nazien, Oratio 40, 9: SC 358,216 (PG 36,369).
262 Thánh Hilariô, In evangelium Matthaei, 2, 6: SC 254,110 (PL 9,927).
263 X. Mt 1,13.
264 X. Tv 95,10.
265 X. Mc 3,27.
266 X. Mt 16,21-23.
267 CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
268 CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 5-6.
269 CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.
270 X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
271 X. Mt 10,5-7.
272 X. Mt 8,11; 28,19.
273 CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.
274 X. Lc 7,22.
275 X. Mt 11,25.
276 X. Mc 2,23-26;Mt 21,18.
277 X. Ga 4,6-7; 19,28.
278 X. Lc 9,58.
279 X. Mt 25,31-46.
280 X. 1 Tm 1,15.
281 X. Lc 15,11-32.
282 X. Mc 4,33-34.
283 X. Mt 22,1-14.
284 X. Mt 13,44-45.
285 X. Mt 21,28-32.
286 X. Mt 13,3-9.
287 X. Mt 25,14-30.
288 X. Mt 13,10-15.
289 X. Lc 7,18-23.
290 X. Ga 5,36; 10,25.
291 X. Ga 10,38.
292 X. Mc 5,25-34; 10,52.
293 X. Ga 10,31-38.
294 X. Mt 11,6.
295 X. Ga 11,47-48.
296 X. Mc 3,22.
297 X. Ga 6,5-15.
298 X. Lc 19,8.
299 X. Mt 11,5.
300 X. Lc 12,13-14; Ga 18,36.
301 X. Ga 8,34-36.
302 X. Mt 12,26.
303 X. Lc 8,26-39.
304 X. Ga 12,31.
305 Vênantiô Fortunatô, Hymnus “Vexilla Regis”: MGH 1/4/1, 34 (PL 88,96).
306 X. Mc 3,13-19.
307 X. Mc 3,16; 9,2; Lc 24,34; 1 Cr 15,5.
308 X. 1 Pr 2,4.
309 X. Lc 22,32.
310 X. Mt 18,18.
311 X. Mt 16,22-23.
312 X. Mt 17,23; Lc 9,45.
313 X. Mt 17,1-8; 2 Pr 1,16-18.
314 X. Lc 24,27.
315 X. Is 42,1.
316 Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 45, a. 4, ad 2: Ed. Leon. 11, 433.
317 Phụng vụ Byzantin. Kontakion in die Transfigurationis: Menaia tou olou eniautou, v. 6 (Romae 1901) 341.
318 Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 45, a. 4, ad 2: Ed. Leon. 11, 433.
319 X. Lc 9,23.
320 Thánh Augustinô, Sermo 78, 6: PL 38,492-493.
321 X. Ga 13,1.
322 X. Mc 8,31-33; 9,31-32; 10,32-34.
323 X. Mt 23,37a.
324 X. Lc 19,41.
325 X. Ga 6,15.
326 X. Mt 21,1-11.
327 X. Ga 18,37.
328 X. Mt 21,15-16; Tv 8,3.
329 X. Lc 19,38; 2,14.
330 ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Catechesi tradendae, 9: AAS 71 (1979) 1284.
331 X. Gl 4,19.
332 CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 10.
333 CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 7.
334 X. Thánh Lêô Cả, Sermo 51, 3: CCL 138A, 298-299 (PL 54,310).
335 X. Dt 12,3.