PHẦN THỨ HAI
1 Lời sấm.
Đất mới
Lời ĐỨC CHÚA loan truyền tới đất Khát-rác,
và chọn Đa-mát làm chốn nghỉ ngơi,
vì dòng dõi A-ram cũng như mọi chi tộc Ít-ra-en
đều thuộc về ĐỨC CHÚA.
2 Lời ấy cũng loan truyền tới Kha-mát, giáp ranh với Ít-ra-en,
tới cả Tia và Xi-đôn là những thành khôn ngoan có tiếng.
3 Tia đã xây cất pháo đài, thu tích bạc nhiều như bụi cát,
gom góp vàng nhiều như bùn đất bên đường.
4 Nhưng này, Chúa sẽ chiếm đoạt hết.
Người đập tan tường lũy mà xô xuống biển,
còn chính thành thì bị lửa thiêu.
5 Nhìn thấy thế, Át-cơ-lôn sợ hãi; và Ga-da quằn quại đớn đau.
Cả Éc-rôn cũng vậy, vì điều nó chờ mong đã tan thành mây khói.
Ga-da chẳng còn vua, Át-cơ-lôn không người cư ngụ,
6 Át-đốt thành nơi ở cho đám con lai.
Ta sẽ tiêu diệt thói kiêu hãnh của người Phi-li-tinh,
7 sẽ làm cho miệng nó sạch máu
và lấy khỏi răng nó những thức ăn ghê tởm.
Nó cũng sẽ thành số còn sót lại thuộc về Thiên Chúa chúng ta,
sẽ được kể như một thị tộc của Giu-đa,
và Éc-rôn sẽ được đối xử như người Giơ-vút.
8 Cạnh nhà của Ta, Ta sẽ đóng trại canh gác,
đề phòng người qua kẻ lại;
kẻ áp bức sẽ không còn sang đánh chúng nữa,
vì bây giờ chính Ta để mắt trông coi.
Đấng Mê-si-a
9Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi:
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn còn theo mẹ.
10 Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy,
và Người sẽ công bố hòa bình cho muôn dân.
Người thống trị từ biển này qua biển nọ,
từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Tái thiết Ít-ra-en
11 Về phần ngươi, vì Ta đã thiết lập giao ước với ngươi trong máu,
nên những con dân của ngươi đang bị giam cầm,
Ta sẽ đưa lên khỏi hố cạn.
12 Hãy trở về pháo đài kiên cố,
hỡi những kẻ bị giam cầm mà vẫn tràn trề hy vọng.
Chính ngày hôm nay, Ta tuyên bố:
Ta sẽ hoàn lại cho ngươi gấp đôi.
13 Vì Ta đã trương Giu-đa làm cung nỏ, lấy Ép-ra-im làm tên bắn;
hỡi Xi-on, Ta sẽ kích động con cái ngươi
chống lại con cái Gia-van;
Ta sẽ biến ngươi thành lưỡi gươm tráng sĩ.
14 ĐỨC CHÚA sẽ xuất hiện trên dân Người,
mũi tên của Người sẽ phóng đi như tia chớp.
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng sẽ thổi tù và,
Người sẽ tiến bước trong gió bão phương nam.
15 ĐỨC CHÚA các đạo binh sẽ che chở họ,
khiến họ nghiền nát và chà đạp những viên đá phóng,
họ sẽ uống máu như uống rượu
và đầy ứ như những chiếc bình rảy, như các góc bàn thờ.
16 Trong ngày đó,
ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người,
như mục tử cứu thoát đàn chiên.
Họ sẽ chiếu sáng trên đất của Người
như những viên ngọc lấp lánh trên vương miện.
17 Quả thật, họ hạnh phúc biết bao, họ xinh đẹp dường nào!
Lúa mì làm cho thanh niên được nảy nở
và rượu mới làm cho thiếu nữ được vui tươi.
a. Phần thứ hai (Dcr 9–14) khá phức tạp. Có người đề nghị chia phần hai làm hai và gọi như I-sai-a; Da-ca-ri-a đệ nhị (9–11) và Da-ca-ri-a đệ tam (12–14). Dù không gọi như thế, chúng ta cũng phải phân chia phần thứ hai thành hai sưu tập khác nhau.
b. 9,1-8: Đoạn này có nhiều chi tiết khó hiểu. Ý tưởng chính yếu: Thiên Chúa như một lính chiến. Người mở rộng biên cương Giu-đa. Người chiến đấu cho dân Người và đã chiến thắng các nước láng giềng. Lãnh thổ của Giu-đa được trải rộng tới Xy-ri (Khát-rắc, Đa-mát), bờ biển Phê-ni-xi (Tia, Xi-đôn), Phi-li-tinh (Át-cơ-lôn, Ga-da, Éc-rôn, Át-đốt). Nhưng người ta hiểu rằng đoạn này nói đến các biến cố mãi sau cuộc viễn chinh của A-lê-xan-đê Đại Đế năm 333 tCN. Nói chung đây là viễn tượng phổ quát.
c. Khát-rác là một thành phố của Xy-ri, phía bắc Đa-mát, giữa Kha-mát và A-lép.
d. ds: Suối (con mắt) của con người. Chúng tôi dịch dòng dõi A-ram vì A-ram là Xy-ri, hợp với Ít-ra-en.
đ. Một thành của Xy-ri, nằm bên bờ sông Ô-rông-tơ, giữa đường A-lép và Đa-mát.
e. Chúa chủ động hủy diệt thành phố hải cảng giàu có.
g. Nơi đây sẽ có chủng tộc pha trộn giữa người Do-thái với người ngoại.
h. Lề Luật cấm ăn thịt còn máu (x. Lv 3,17; Đnl 12,23; St 9,4), và những con vật không tinh sạch (x. Lv 11,1-47; 17,15-16). Dân Phi-li-tinh sẽ là dân của Chúa, nên sẽ giữ Lề Luật này.
i. Không những được kể vào số sót, dân Phi-li-tinh còn được hưởng quy chế ân xá như thời vào Đất Hứa (x. Gs 15,63; Tl 1,21) hay thời vua Đa-vít (x. 2 Sm 5,6-9).
k. Lãnh thổ Ít-ra-en bao quát hơn Đền Thờ.
l. Thiên Chúa trở thành người tuần canh bảo vệ lãnh thổ và dân cư cho Ít-ra-en. Thiên Chúa ở với dân, không một kẻ thù nào dám bén mảng tới gần. Đó chính là thời Đấng Mê-si-a.
m. 9,9-10 mô tả vị vua hòa bình xuất hiện, khai mạc vương quốc an bình rộng bao la.
n. Trong lời thiên sứ chào Đức Ma-ri-a, Lu-ca đã mượn ý lời này. Trình thuật Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem đã trích nguyên văn lời kêu gọi này (x. Mt 21,5; Ga 12,15).
o. Tiếng reo hò xung trận, hay chiến thắng, hoặc đón tiếp vua Mê-si-a đến, hay tiếng hát reo vui trong vương quốc của Đức Chúa.
p. Đấng Mê-si-a là lẽ công chính của Thiên Chúa gửi đến cho dân. Cũng có thể hiểu chính trực là phẩm cách của Đấng Mê-si-a. Toàn thắng, ds: Đấng được cứu thoát.
q. Các vua chúa xưa vẫn ngồi trên lưng lừa (x. St 49,11; Tl 5,10); hoặc lưng la (2 Sm 13,29; 1 V 1,33.38.44). Lừa tiêu biểu cho thời không có chiến tranh.
r. Không phải ngồi trên hai con lừa; vế sau giải thích cho vế trước.
s. ds: Ta sẽ quét sạch. Người là Vua Mê-si-a; Ta là Đức Chúa.
t. Vua Mê-si-a sẽ loại bỏ mọi thứ chiến cụ như các ngôn sứ từng loan báo (x. Is 31,3; Hs 1,7; Mk 5,9). Như thế Người mới ngồi trên lừa.
u. Từ vịnh Péc-xích đến Địa Trung Hải, từ sông Êu-phơ-rát đến tận cùng cõi đất: biên giới lý tưởng của dân Ít-ra-en. Vương quốc của Đấng Mê-si-a bao trùm khắp cõi đất. Thực ra không bao giờ xảy ra cho một ông vua trần thế.
v. Cc. 11-17 cho thấy Thiên Chúa như người lính hướng dẫn dân tới cuộc chiến thắng. Người loan báo cuộc giải phóng dân lưu đày, đem lại chiến thắng và nền thịnh vượng cho dân lưu đày trở về. Văn thể có tính khải huyền hơn là lời sấm.
x. Xi-on hay Giê-ru-sa-lem. Thiên Chúa nói trực tiếp với dân.
y. Nhắc lại Giao ước Xi-nai: Thiên Chúa lập với dân, kèm theo hiến tế và rảy máu súc vật (x. Xh 24,4-8).
b. Giu-đa miền nam, Ép-ra-im miền bắc: toàn thể Ít-ra-en.
c. Gia-van tượng trưng các dân thù nghịch với Ít-ra-en. Ở đây hiểu là người Hy-lạp.
d. Không phải tiếng tù và rúc lên lúc lâm trận, nhưng báo hiệu Đức Chúa xuất hiện (x. Xh 19,16; Kb 3,3-16; Is 18,3) hay xét xử (Is 27,13).
đ. ds: Tê-man: phần đất ở miền nam, nằm giữa sa mạc Xi-nai và đất Giu-đa.
e. Máu: theo LXX. ds: tiếng ồn ào.
g. Cc. 16-17: Hoàn cảnh an bình theo sau chiến thắng được mô tả dưới hình ảnh nông nghiệp và chăn nuôi. Thiên Chúa luôn chăm sóc và bảo vệ dân Chúa như người mục tử đối với đàn chiên.