Sách Tô-bi-a
Nguyên văn theo Kinh Thánh Cựu Ước Công Giáo, bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Phần audio do Giu-se Định và Ma-ri-a Kim Hồi, cùng các anh chị em thanhlinh.net thực hiện.
Sách Tô-bi-a là một cuốn sách nằm trong Kinh Thánh Cựu Ước. Sách gồm có 14 chương, không rõ tác giả là ai. Thời gian viết vào khoảng năm 300-200 TCN, thời gian được tường thuật trong sách vào khoảng năm 700 TCN.
Chương 1
1 Đây là sách truyện ông Tô-bít, con ông Tô-bi-ên, cháu ông Kha-nan-ên, chắt ông A-đu-ên, cháu ba đời ông Ga-ba-ên, cháu bốn đời ông Ra-pha-en, cháu năm đời ông Ra-gu-ên. Ông thuộc dòng dõi ông A-xi-ên, chi tộc Náp-ta-li.2 Vào thời San-ma-ne-xe làm vua Át-sua, ông bị đày khỏi Tít-be, một thành ở miền nam Ky-đi-ô, thuộc Náp-ta-li, trên miền Ga-li-lê Thượng, bên trên Khát-xo nằm lui vào bên trong, hướng mặt trời lặn, ở phía bắc Phô-go.
Ông Tô-bít bị lưu đày
3 Tôi là Tô-bít, tôi đã từng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi. Tôi cũng đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi đày với tôi qua Ni-ni-vê, ở xứ Át-sua.4 Khi tôi còn ở trong xứ tôi là đất Ít-ra-en, và khi tôi còn trẻ, toàn bộ chi tộc của cha tôi là Náp-ta-li đã ly khai với nhà Đa-vít, tổ tiên tôi, và thành đô Giê-ru-sa-lem. Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, thành này đã được chọn làm nơi cho mọi chi tộc Ít-ra-en đến tế lễ; và tại đây, Đền Thờ Thiên Chúa ngự đã được thánh hiến và xây cất cho mọi thế hệ mai sau.5 Còn tất cả anh em tôi, cũng như nhà Náp-ta-li cha tôi, thì trên mọi núi đồi miền Ga-li-lê, lại cúng tế con bê mà Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, đã làm ra tại Đan.
6 Chỉ có mình tôi đã nhiều lần trẩy lên Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ, theo những điều đã chép trong chiếu chỉ ngàn đời được ban truyền trong toàn cõi Ít-ra-en. Các hoa quả đầu mùa và những con vật đầu lòng, cũng như một phần mười đàn vật và lông những con cừu được xén lần đầu tiên, tôi đều mau mắn đưa tới Giê-ru-sa-lem.7 Tôi dâng các thứ đó cho các thầy tư tế, con cái ông A-ha-ron, để lo việc tế lễ; còn một phần mười lúa miến, rượu nho, ô-liu, thạch lựu, vả cùng những trái cây còn lại, thì dâng cho con cái ông Lê-vi đang phục vụ tại Giê-ru-sa-lem. Phần mười thứ hai, tôi nộp bằng tiền mặt trong sáu năm liền để làm tiền tiêu dùng hằng năm tại Giê-ru-sa-lem.8 Tiền đó, tôi tặng cô nhi, quả phụ và những người ngoại kiều sống giữa con cái Ít-ra-en; ba năm một lần, tôi đem đến tặng họ. Chúng tôi dùng số tiền đó mà ăn tiêu theo chiếu chỉ được ban truyền trong luật Mô-sê liên quan đến những việc ấy, và theo các huấn lệnh của bà Đơ-vô-ra, thân mẫu cha ông chúng tôi là Kha-nan-ên, vì cha tôi chết để lại tôi mồ côi.9 Đến tuổi thành nhân, tôi lấy một người thuộc dòng dõi cha ông chúng tôi làm vợ; nhờ nàng, tôi được một đứa con trai và đặt tên cho nó là Tô-bi-a.
10 Thời lưu đày qua Át-sua, tôi cũng bị đi đày và đã tới Ni-ni-vê. Mọi anh em và những người cùng một dòng máu với tôi đều đã dùng thức ăn của dân ngoại.11 Còn tôi, tôi vẫn kiêng không dùng thức ăn của dân ngoại.12 Và bởi vì tôi hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa tôi,13 nên Người là Đấng Tối Cao đã làm cho tôi được vừa lòng đẹp mắt vua San-ma-ne-xe. Tôi đã trở thành người mua sắm cho vua tất cả những gì vua cần dùng.14 Vì vậy, tôi thường hay qua xứ Mê-đi mua sắm cho vua, cho đến ngày vua băng hà; và tôi đã gởi ông Ga-ba-ên, là anh em ông Gáp-ri, tại xứ Mê-đi, những túi bạc tính tất cả là ba trăm ký.
15 Khi vua San-ma-ne-xe băng hà, thái tử Xan-khê-ríp lên ngôi kế vị, thì các đường Mê-đi bị cắt đứt, và tôi không thể qua Mê-đi được nữa.16 Dưới thời vua San-ma-ne-se, tôi đã rộng tay bố thí cho các anh em cùng một dòng máu với tôi.17 Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi, tôi cho kẻ trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó.18 Nếu có ai bị vua Xan-khê-ríp giết chết trên đường vua trốn khỏi Giu-đê trở về, trong những ngày Vua Trời trừng phạt vua về những lời phạm thượng đã thốt ra, thì tôi cũng chôn cất. Quả vậy, trong cơn phẫn nộ, vua đã giết chết nhiều người trong số con cái Ít-ra-en, còn tôi cứ đi lấy trộm xác họ mà chôn cất. Vua Xan-khê-ríp đi tìm những xác đó mà không thấy.19 Một người dân thành Ni-ni-vê tố giác với vua rằng chính tôi là người chôn cất họ, nên tôi lẩn tránh. Khi được biết là vua đã rõ chuyện tôi và đang cho người lùng bắt để giết tôi, tôi sợ hãi và trốn thoát.20 Thế là bao nhiêu của cải tôi có đều bị tịch thu, không còn lại một chút gì mà không bị sung vào kho vua, trừ An-na vợ tôi và Tô-bi-a con trai tôi.
21 Không đầy bốn mươi ngày sau, hai người con trai của vua giết chết vua, rồi bỏ trốn lên núi A-ra-rát. Hoàng tử Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị vua cha, và đặt A-khi-ca, con trai của A-na-ên, người anh em tôi, lên trông coi việc tài chính cả nước cùng nắm quyền điều khiển toàn bộ công việc quản trị.22 Bấy giờ, A-khi-ca bênh vực tôi và tôi đã trở xuống Ni-ni-vê. Quả vậy, dưới triều Xan-khê-ríp, vua Át-sua, A-khi-ca đã từng làm quan đại chước tửu, chưởng ấn, người trông coi việc quản trị và tài chính. Vua Ê-xa-khát-đôn lại đặt A-khi-ca giữ các chức vụ một lần nữa: A-khi-ca là cháu trai và cùng một dòng họ với tôi.