Thần Học Cơ Bản

Trích dịch từ cuốn Fundamental Theology của Đức ông Fernando Ocáriz Braña (1944), Bề trên Giám hạt tòng nhân Opus Dei, và cha Arturo Blanco (1945), Giáo sư Thần học tại Giáo Hoàng Đại Học Thánh Giá [Pontificia Universidad de la Santa Cruz], Rôma. Người dịch: Augustine Pham.


Lời tựa

Dưới tựa đề Thần học Cơ bản, chúng tôi hân hạnh giới thiệu tới độc giả ấn bản sửa đổi của cuốn Mặc khải, Đức tin và Tính khả tín được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1998. Bản sửa đổi này là kết quả của việc đưa ra một số thay đổi nhất định đối với bản gốc, trong khi vẫn tuân theo đề cương cơ bản của nó, nhằm trình bày rõ ràng hơn nữa bản tính của nghiên cứu này xét như thành phần của một tuyển tập mở rộng các sách giáo khoa thần học.

Bản sửa đổi này kết hợp những cải tiến nhỏ so với bản văn gốc và tận dụng kinh nghiệm thực tiễn của những người đã sử dụng Mặc khải, Đức tin và Tính khả tín. Ngoài ra, nó còn tìm cách làm sáng tỏ một số điểm nhất định nhằm hướng tới hiểu biết tốt hơn, đồng thời, lược bỏ những phần nội dung không thiết yếu đối với đề tài môn học, thay vào đó, nên dành cho những nghiên cứu ở mức độ chuyên sâu hơn.

Thần học Cơ bản cũng sử dụng các văn kiện đã được Huấn quyền ban hành liên quan đến đề tài của nó kể từ lần xuất bản đầu tiên của Mặc khải, Đức tin và Tính khả tín. Về vấn đề này, Thần học Cơ bản trình bày cho độc giả những giáo huấn mới nhất và có tính cập nhật nhất của Giáo Hội. Trong ấn bản này, có Thông điệp Fides et ratio [Đức tin và lý trí] của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nơi xem xét các khía cạnh đa dạng trong mối quan hệ giữa đức tin và lý trí; bên cạnh đó là Tuyên ngôn Dominus Iesus [Chúa Giêsu], văn kiện trình bày tuyên bố của Thánh bộ Giáo lý Đức tin liên quan đến các tôn giáo trong và ngoài Kitô giáo; và sau cùng là cuốn sách gần đây của Đức Bênêđíctô XVI, Chúa Giêsu thành Nadarét, nơi xem xét tính đồng nhất giữa Chúa Giêsu của lịch sử và Đấng Kitô của Đức tin.

Khi trình bày cuốn sách này, chúng tôi đổi mới mong muốn của mình rằng nó sẽ hữu ích cho các sinh viên thần học và cho tất cả những ai quan tâm đến việc nghiên cứu các cơ sở của Đức tin Công Giáo. Hơn nữa, chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ dẫn độc giả đến một nhận thức Kitô giáo sâu sắc, thứ cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa trong việc nâng đỡ Đức tin, đem lại lý do cho niềm hy vọng của chúng ta và giúp người khác đón nhận ân huệ tuyệt vời là nhận biết, yêu mến Chúa Kitô và khám phá ra rằng “mọi điều Chúa Kitô làm đều có một giá trị siêu vượt, cho chúng ta thấy được bản tính của Thiên Chúa” (x. Thánh Josemaría Escrivá, Christ is Passing By [Chúa Kitô đang đi ngang qua], 109).

Lời nói đầu

Thần học Cơ bản là một môn học tương đối gần đây. Nói chung, đối tượng và phương pháp của nó liên quan đến thần học về “những điều cơ bản.”

Xét như một bộ môn riêng biệt và có sự phân biệt với các nhánh khác của thần học, cách đặc biệt là Biện giáo, Thần học Cơ bản ra đời vào thế kỷ XIX. Sự xuất hiện của nó nhằm đáp ứng nhu cầu cần đưa ra một hướng đi mới cho việc bảo vệ Đức tin. Khoa biện giáo cổ điển, vốn là sự bảo vệ đức tin trong thời kỳ trước đó, hiếm khi tính đến Mặc khải.

Nếu chúng ta chấp nhận rằng Thần học Cơ bản—đặt ra, mở rộng dựa trên và tái xác định—di sản của bộ môn ra đời vào thế kỷ XVI được gọi là “Biện giáo,” thì lịch sử của Thần học Cơ bản hẳn sẽ đưa chúng ta trở lại với những Nhà biện giáo tiên khởi trong buổi bình minh của diễn từ thần học Kitô giáo ở thế kỷ II.

Những tác giả đầu tiên sử dụng cụm từ Thần học Cơ bản là L. Guzmics, 1828, F. Brenner, 1837, và A. Knoll, 1852. Nhưng người đầu tiên phát triển Thần học Cơ bản theo nghĩa hiện đại của thuật ngữ này là J.N. Ehrlich, vào khoảng giữa năm 1859 và 1864.1

Nét đặc trưng của bộ môn mới hình thành này là lý thuyết về Mặc khải được xét dưới khía cạnh lịch sử-cứu độ của nó với những quy chiếu minh nhiên về Chúa Kitô. Chúa Kitô được coi là trung tâm và chìa khóa của Mặc khải, đức tin và tính khả tín. Như vậy, khi nghiên cứu ba đề tài này, nó đã ít nhiều liên kết một cách minh nhiên và hữu hiệu những suy xét mang tính tín lý [hay giáo điều] và biện giáo. Điều này có nghĩa rằng đối với nó, Mặc khải vừa là một mầu nhiệm, vừa là một sự kiện; đức tin là một tri thức siêu nhiên có nền tảng nhân loại và lịch sử; đồng thời, tính khả tín là một điều gì đó quan hệ mật thiết đến những thực tại này.

Trong khi đặt ra các chủ đề vốn đã định hình nên cơ sở của khoa biện giáo cổ điển, bộ môn mới cũng bổ sung thêm những đề tài khác. Sự khác biệt chính không phải là việc có được một cách xử lý mang tính biện giáo riêng biệt đối với các chủ đề chính (tôn giáo, Mặc khải, đức tin, Giáo Hội, phép lạ, Sự phục sinh, v.v.), nhưng là việc suy xét chúng dưới bản tính xét là một mầu nhiệm.

Ngay từ đầu, bộ môn mới này đã được thiết lập như một nền tảng cho toàn bộ đề tài của thần học, đây là điều vẫn được giữ nguyên như vậy cho đến ngày nay, bất chấp vô số những thay đổi về trọng tâm và những sự phát triển khác đã diễn ra, cách đặc biệt trong nửa sau của thế kỷ XX. Những sự phát triển này bao gồm nhiều khía cạnh, cụ thể là truyền thống, nhân học, lịch sử-cứu độ, thông diễn học, phân tích, ngôn ngữ học, lôgic, lý thuyết-khoa học. Chẳng hạn, E. Biser định nghĩa thần học cơ bản (THCB) của ông là THCB thông diễn, P. Knauer là THCB đại kết, A. Darlap là THCB lịch sử-cứu độ, và của H. Fries được coi là THCB thần học-siêu nghiệm, v.v.2 Những khác biệt đa dạng này cho thấy tất yếu phải có một hạt nhân đề tài phụ thuộc vào Mặc khải, tri thức về nó và sự chấp nhận đối với nó; nghĩa là phụ thuộc vào đức tin và tính khả tín.

Trong cuốn sách này, THCB được hiểu là thần học về những điều cơ bản của thần học, thuật ngữ “cơ bản” được xét là cái mà trên nó, cái gì đó dựa vào và nhận được sự hỗ trợ. Nó cũng là nguyên lý và nguồn của thực tại mà nó nâng đỡ và làm cho phát triển. Việc nghiên cứu những điều cơ bản sẽ bao gồm việc mô tả và phân tích chúng, đồng thời, cho thấy ở nơi chúng tính vững chắc và khả năng dùng làm nền tảng và nâng đỡ những gì đã được xây dựng trên chúng.

Trong những trang sách bạn đang đọc, chúng ta sẽ phát triển Thần học Cơ bản xét như một nghiên cứu về Mặc khải và đức tin. Mọi diễn từ Kitô giáo về Thiên Chúa đều dựa trên và được nuôi dưỡng bởi hai thực tại này. Nhưng không phải trùng ý, Thần học Cơ bản cũng là nghiên cứu về tính khả tín của Mặc khải lịch sử, vì thế, nó bao gồm cả khoa Biện giáo được hiểu như khoa học về tính khả tín của Lời mặc khải.

Chúng ta có thể nói rằng bộ môn này là nghiên cứu thần học về những từ đầu tiên của Kinh Tin Kính, tức “Tôi tin,” hay “Chúng tôi tin,” và từ cuối cùng, tức “Amen”. “Amen” là một từ tiếng Hípri có nghĩa giống như từ pistis trong tiếng Hy Lạp, tức là đức tin. Trong tiếng Hy Lạp, “Amen” cũng có thể có nghĩa là “chắc chắn”. Do đó, Kinh Tin Kính nằm giữa hai từ mà về bản chất có cùng một ý nghĩa và tham chiếu đến đồng thời một nội dung (nằm giữa hai từ) cùng với ai đó mà từ nơi người ấy, nội dung hay tin tức đó được tiếp nhận. Vì thế, rõ ràng là chúng ta đang xem xét cả Mặc khải từ Thiên Chúa và đức tin thần linh. Bởi lý do này, “thần học cơ bản” là bộ môn “có đối tượng là sự kiện mặc khải Kitô giáo và việc lưu truyền nó trong Giáo Hội.”3 Và khi nói rằng việc nghiên cứu thần học về Mặc khải và Đức tin là một chuyên luận cơ bản, chúng ta rõ ràng ngụ ý rằng nó liên quan đến chính những điều cơ bản của tất cả các chuyên luận thần học khác.

Mặc khải và đức tin là hai thực tại nhất thiết có mối liên hệ với nhau. Việc hiểu đức tin có liên quan đến hiểu biết về Mặc khải. Việc hiểu về tính khả tín cũng liên quan đến hiểu biết về Mặc khải và đức tin. Tính khả tín dọn đường cho những câu trả lời mà đức tin đưa ra và tìm thấy những lập luận cơ bản cho nó từ trong Mặc khải lịch sử. Chúng ta tìm thấy sự liên kết lẫn nhau giữa ba khái niệm này trong các văn kiện mà hai công đồng chung gần đây nhất đã dành riêng cho những vấn đề này, đó là Hiến chế tín lý Dei Filius về đức tin Công giáo (24/04/1870) và Hiến chế tín lý Dei Verbum về Mặc khải của Thiên Chúa (18/11/1965).4 Ngoài ra, Thông điệp Fides et ratio cũng đề cập đến chúng.

Trong bộ môn này, thần học Kitô giáo đảm nhiệm tác vụ không thể thiếu là hỗ trợ mọi điều mà chính nó phát biểu. Khi xem xét quan hệ giữa Thiên Chúa và con người, nó thiết lập những nền tảng để đi sâu vào vấn đề Thiên Chúa là gì, Ngài muốn gì và làm gì, cũng như để nhận biết rõ hơn con người là gì và được mời gọi để trở thành gì theo ý định của Thiên Chúa. Nghiên cứu này tập trung vào việc chiêm ngắm Chúa Kitô, Đấng là sự hoàn tất Mặc khải của Thiên Chúa cho con người, Đấng là nơi mà con người phải hiệp nhất nhờ đức tin. “Chúa Kitô, Ađam mới, nhờ mặc khải về mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Ngài, vén mở trọn vẹn cho con người về chính họ và làm cho ơn gọi cao trọng nhất của họ trở nên rõ ràng.”5

Việc nghiên cứu cấu trúc và nhận thức trong lịch sử về quan hệ cứu độ giữa Thiên Chúa và con người mang tới cho bộ môn này một chiều kích thần học, một chiều kích lấy Chúa Kitô làm trung tâm và một chiều kích nhân học. Cả ba đều cần thiết và làm sáng tỏ lẫn nhau. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với một nhóm chuyên gia về Thần học Cơ bản rằng: “Nội dung đặc thù nơi môn thần học của anh em là mặc khải của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Đó cũng là trung tâm vĩ đại và đích thực trong đức tin của chúng ta: Thiên Chúa, Đấng mặc khải mầu nhiệm của Ngài về tình yêu, và trong khi soi sáng tâm trí của những ai đón nhận Ngài, mầu nhiệm đó khiến họ choáng váng đến mức làm cho hiểu biết của họ trở nên cục bộ và tất yếu không đầy đủ. Mặc khải này mở ra con đường đưa chúng ta đến hiểu biết sâu sắc về cùng một mầu nhiệm về con người.”6

Thần học Cơ bản nghiên cứu cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một cuộc đối thoại về ơn cứu độ đã được phát triển trong thế giới xuyên suốt dòng lịch sử, khi Thiên Chúa gửi Lời và Ân Huệ của Ngài, còn con người đáp lại bằng việc chấp nhận trong đức tin đối với Lời Thiên Chúa được Tình Yêu của Ngài thúc đẩy. Ơn cứu độ đến dưới hình thức của một cuộc đối thoại, và bộ môn này khám phá và phân tích cấu trúc của cuộc đối thoại đó. Cuộc đối thoại của Mặc khải và đức tin giữa Thiên Chúa và con người là nền tảng của mọi suy tư thần học Kitô giáo. “Mặc khải, nghĩa là mối quan hệ siêu nhiên được thiết lập giữa Thiên Chúa với nhân loại theo sáng kiến của chính Ngài, có thể được mô tả bằng một cuộc đối thoại mà trong đó, Lời Chúa được diễn đạt trong sự Nhập thể, và do đó, trong Tin Mừng. Cuộc trò chuyện phụ-tử, thánh thiện và gián đoạn vì Tội Tổ Tông giữa Thiên Chúa và con người đã được nối lại một cách kỳ diệu trong dòng lịch sử. Lịch sử Cứu độ tường thuật cách chính xác cuộc đối thoại lâu dài và nhiều thay đổi này, thứ phát sinh từ Thiên Chúa và được đan dệt với con người trong một quá trình hội thoại tuyệt vời và phức tạp.”7

Việc nghiên cứu Mặc khải và đức tin có thể được thực hiện theo hai cách rất khác nhau, theo lối tín lý hoặc theo khoa Biện giáo. Sự phân biệt giữa chúng nằm ở khởi điểm của suy tư. Nó có thể khởi đi từ Mặc khải được chấp nhận nhờ đức tin, và trong trường hợp này, đó là một nghiên cứu mang tính tín lý; hoặc có thể khởi đi từ điều mà lý trí–không nhất thiết nại đến đức tin–có thể khám phá ra trong thế giới, nơi con người và trong lịch sử, trong trường hợp này, đó là một nghiên cứu mang tính biện giáo nhắm đến việc chứng tỏ tính khả tín nơi Mặc khải của Thiên Chúa trong Chúa Kitô.8

Vì lý do đó mà cuốn sách này được chia thành hai phần. Phần đầu tiên là Tín điều Cơ bản, trong đó, chiếu theo phương pháp luận của một khoa học tín lý, chúng ta thảo luận về Mặc khải lịch sử của Thiên Chúa và của—sự lưu truyền đức tin thần học—của Ngài trong Hội Thánh và qua Hội Thánh. Đây là những điều cơ bản của Thần học Tín lý. Phần thứ hai là Những điều cơ bản của khoa Biện giáo, trong đó, bỏ sang một bên những khía cạnh của khoa học về tính khả tín vốn phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử của nó, chúng ta thảo luận về cấu trúc cơ bản của tính khả tín nơi Ngôi Lời Nhập Thể cùng với những yếu tố cơ bản biểu lộ tính khả tín đó nơi con người ở bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử Giáo Hội.9

Trong phần thứ hai, rõ ràng chúng ta phải tôn trọng phương pháp luận của khoa Biện giáo, thứ mà trong số những điều khác, có tính đến lập trường của người đối thoại, đối tượng được coi là chưa đến với đức tin Kitô giáo hoặc ít là chưa hoàn toàn vươn tới được. Vì lý do này, trong phần thứ hai của cuốn sách, các bản văn từ Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn quyền sẽ được sử dụng không chiếu theo giá trị và thẩm quyền mà đức tin Kitô giáo ban cho chúng, nhưng chiếu theo giá trị lịch sử và xã hội mà chúng sở hữu nơi chính mình, mặc dù sẽ được kiểm soát chặt chẽ nhằm đáp ứng các yêu cầu của khía cạnh khoa học này.10 Cách tiến hành này không lấy đi bất cứ giá trị thần học nào khỏi nghiên cứu của chúng ta. Và mặc dù việc nghiên cứu này không dựa trên thẩm quyền của Mặc khải, thì khoa Biện giáo Kitô giáo vẫn sẽ tiến hành dưới ánh sáng đức tin, thứ giúp nó tìm ra những lý do và lập luận có thể hiểu được đối với những người không có đức tin, và hữu ích trong việc cho thấy rằng chọn lựa Kitô giáo rất hợp lý và nhân văn.11

Thiên Chúa đã mặc khải chính Ngài cho con người. Nhưng Ngài cũng tự trao ban chính mình trong một mầu nhiệm theo một hệ thống cũng mầu nhiệm, thứ tiến về phía con người trong cuộc sống này và giải thích nó. Do đó, Mặc khải mang theo nó động lực thu hút sự chú ý của con người. Nó trợ giúp trí thông minh và sự tự do của họ để đi theo Chúa Kitô xét là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (x. Ga 14,6). Do đó, Thần học Cơ bản bao gồm cả suy xét tín lý lẫn góc nhìn biện giáo trong sự đan quện và soi sáng lẫn nhau.12

Scroll to Top