Chương 3. Cơ thể thiêng liêng



Như chúng ta đã thấy, đời sống nội tâm, vốn giả thiết tình trạng ân sủng, hệ tại một khuynh hướng quảng đại của linh hồn hướng về Thiên Chúa, trong đó, cuộc đối thoại thân mật của mỗi người với chính mình dần được nâng lên, được biến đổi và trở thành một cuộc đối thoại thân mật của linh hồn với Thiên Chúa. Chúng ta đã nói rằng đó là đời sống vĩnh cửu được bắt đầu trong sự mờ tối của đức tin trước khi đạt tới tầm vóc viên mãn trong sự sáng tỏ của thị kiến không bao giờ đánh mất.

Để hiểu rõ hơn về hạt giống của đời sống vĩnh cửu trong chúng ta, semen gloriae, chúng ta phải suy ngẫm về sự kiện rằng trong các khả năng của mình, từ ân sủng thánh hóa đã nảy sinh ra các nhân đức phú bẩm, cả đối thần lẫn luân lý, và bảy ân huệ của Chúa Thánh Thần; các nhân đức và ân huệ này giống như những chi thể trong cùng một cơ thể thiêng liêng, một cơ thể hẳn phải phát triển cho đến khi chúng ta được hưởng phúc thiên đàng.

Bài I: Sự sống tự nhiên và sự sống siêu nhiên của linh hồn

Trước hết, chúng ta phải phân biệt rõ ràng xem trong linh hồn mình, điều gì thuộc về bản tính của nó và điều gì là một ân huệ được ban cách hoàn toàn nhưng không từ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, cũng cần phải có sự phân biệt như vậy đối với các thiên thần, những vị có bản tính, tuy hoàn toàn thiêng liêng, nhưng rất thấp kém so với quà tặng ân sủng.

Nếu xem xét kỹ lưỡng linh hồn con người trong bản tính của nó, chúng ta sẽ thấy hai địa hạt hoàn toàn khác nhau: một thuộc về trật tự giác quan, một thuộc về trật tự siêu giác quan hay trí năng. Phần cảm tính của linh hồn là điểm chung của người và động vật; nó gồm có các giác quan bên ngoài và các giác quan bên trong, bao hàm trí tưởng tượng, trí nhớ giác quan và tính nhạy cảm hay sự thèm muốn cảm tính, vốn từ đó nảy sinh những đam mê hay cảm xúc mãnh liệt mà chúng ta gọi là yêu mến và thù hận, ham muốn và ghê tởm, niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và tuyệt vọng, táo bạo và e dè, cũng như tức giận. Tất cả đời sống cảm tính này cũng tồn tại trong động vật, cho dù những đam mê của chúng có khi nhẹ nhàng như chim bồ câu hay chiên con, có khi mãnh liệt như sói và sư tử.

Nhưng vượt trên phần cảm tính là điểm chung của người và động vật, bản tính của chúng ta còn sở hữu một trí năng là thành phần chung của thiên thần và loài người, mặc dù thành phần ấy mạnh mẽ và đẹp đẽ hơn nhiều ở nơi các thiên thần. Nhờ phần trí năng này, linh hồn chúng ta vượt lên trên thể xác; đó chính là lý do tại sao chúng ta nói rằng linh hồn là thiêng liêng, rằng nó không phụ thuộc vào thể xác và vì thế, sẽ có thể tồn tại ngoài thể xác sau khi chúng ta qua đời.

Từ bản chất của linh hồn trong địa hạt này mà hai khả năng cao hơn của chúng ta, tức trí năng và ý chí, được sinh ra.103 Trí năng không chỉ nhận biết những phẩm tính, màu sắc và âm thanh khả giác, nhưng còn cả những thực tại khả tri, thực tại của những chân lý tất yếu và phổ quát, chẳng hạn: “Không có điều gì xảy ra mà không có nguyên nhân, và, phân tích đến cùng, nguyên nhân tối thượng. Chúng ta phải làm lành lánh dữ. Hãy làm những gì bạn phải làm bất kể có chuyện gì xảy ra.” Một con vật sẽ không bao giờ đạt tới tri thức về những nguyên lý như vậy, và ngay cả khi trí tưởng tượng của nó liên tục phát triển đến mức hoàn thiện, nó cũng sẽ không bao giờ đạt tới trật tự trí năng của những chân lý tất yếu và phổ quát. Trí tưởng tượng của nó không thể vượt ra ngoài trật tự của những phẩm tính khả giác được biết đến ở đâu đó trong tính cá biệt bất tất của chúng.

Vì trí năng nhận biết điều thiện một cách phổ quát, tức không chỉ những điều thiện thú vị hay hữu ích, nhưng còn những điều thiện chính trực và hợp với lẽ phải (chẳng hạn: Thà chết còn hơn làm kẻ phản bội), nên ý chí có thể yêu mến điều thiện, mong muốn điều thiện và thực hiện điều thiện. Nhờ đó, trí năng chế ngự phần cảm tính, hay những cảm xúc, là điểm chung của người và động vật. Nhờ trí năng và ý chí, con người giống với các thiên thần; mặc dù trái ngược với trí năng thiên thần, trong cuộc đời trần thế, trí năng của con người phụ thuộc vào các giác quan là những thứ đưa ra cho nó những đối tượng đầu tiên mà nó biết.

Hai khả năng cao hơn, tức trí năng và ý chí, có thể phát triển mạnh mẽ như chúng ta thấy nơi những người xuất chúng và thiên tài. Tuy nhiên, những khả năng này có thể phát triển mà mãi mãi không bao giờ nhận biết và yêu mến đời sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, một đời sống thuộc về một cấp độ khác hoàn toàn siêu nhiên và siêu nhiên như nhau đối với cả thiên thần và loài người. Thiên thần và loài người thực sự có thể nhận biết Thiên Chúa một cách tự nhiên từ bên ngoài thông qua sự phản chiếu những nét hoàn hảo của Người trong các thụ tạo; nhưng không có thụ tạo và trí năng thụ tạo nào có thể đạt tới bằng các khả năng tự nhiên của mình, ngay cả một cách tối tăm và mơ hồ, đối tượng mô thức và chính yếu của trí năng thần linh.104 Nếu ai đó cho rằng điều này có thể thực hiện được, thì người ấy chỉ đang chủ trương rằng trí năng thụ tạo có cùng bản tính với Thiên Chúa, vì nó được xác định rõ ràng bởi cùng một đối tượng mô thức.105 Như Thánh Phaolô nói: “Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa.”106 Trật tự này tự bản chất là siêu nhiên.

Ân sủng thánh hóa, hạt giống vinh quang, dẫn chúng ta vào trật tự cao hơn của chân lý và sự sống ấy. Tự bản chất, đó là một sự sống siêu nhiên, một sự tham dự vào sự sống sâu thẳm nơi Thiên Chúa, vào bản tính thần linh, bởi lẽ ngay từ dưới thế, ân sủng này đã chuẩn bị cho chúng ta để một ngày nào đó được thấy Thiên Chúa như Người thấy chính Người và yêu mến Người như Người yêu chính Người. Thánh Phaolô tuyên bố: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa.”107

Ân sủng thánh hóa, thứ khiến chúng ta bắt đầu sống trong trật tự cao hơn và vượt trên các thiên thần của đời sống sâu thẳm nơi Thiên Chúa, giống như một cành ghép thần linh được nhập vào bản chất của linh hồn để nâng cao sức sống cho nó và khiến nó không còn sinh ra những hoa trái tự nhiên nữa, nhưng là những hoa trái siêu nhiên, những hành vi đáng thưởng giúp mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Do đó, sự ghép nối thần linh của ân sủng thánh hóa trong chúng ta là một sự sống siêu nhiên tự bản chất và trổi vượt hơn nhiều so với một phép lạ khả giác và vượt trên sự sống tự nhiên của linh hồn bất tử và thiêng liêng của chúng ta.108

Ngay cả dưới thế, đời sống ân sủng này vẫn phát triển trong chúng ta dưới dạng thức các nhân đức phú bẩm và bảy ơn Chúa Thánh Thần. Cũng như trong trật tự tự nhiên, các khả năng trí tuệ và cảm xúc của chúng ta phát sinh từ chính bản chất của linh hồn, thì trong trật tự siêu nhiên, từ ân sủng thánh hóa được lãnh nhận trong bản chất của linh hồn, cũng phát sinh trong những khả năng của chúng ta các nhân đức phú bẩm và các ân huệ là những điều cấu thành nên, cùng với cội rễ mà từ đó chúng sinh ra, cơ thể thiêng liêng hay siêu nhiên của chúng ta.109 Nó đã được ban cho chúng ta trong phép rửa tội và được phục hồi nhờ phép giải tội nếu chúng ta chẳng may đánh mất.

Cơ thể thiêng liêng có thể được diễn tả trong sơ đồ về các nhân đức và ân huệ sau đây:

Nhân Đức và Ân Huệ

Liên quan tới sơ đồ này, chúng ta nên tham khảo các luận thuyết của Thánh Tôma về mỗi nhân đức, trong đó, ngài cũng nói về các ân huệ tương ứng với chúng.110 Ơn kính sợ Chúa tương ứng với cả đức tiết độ và đức cậy,111 nhưng đức cậy cũng được bổ trợ bởi ơn thông hiểu, thứ cho chúng ta thấy được sự trống rỗng của các thụ tạo và do đó, làm cho chúng ta khao khát Thiên Chúa và phụ thuộc vào Người.112

Bài II: Các nhân đức đối thần

Các nhân đức đối thần là các nhân đức được phú bẩm mà đối tượng của chúng là chính Thiên Chúa, cùng đích siêu nhiên của chúng ta. Chính vì thế, chúng được gọi là đối thần. Trái lại, các nhân đức luân lý có đối tượng là các phương thế siêu nhiên tương xứng với cùng đích của chúng ta. Theo đó, đức khôn ngoan hướng hành động của chúng ta đến mục đích này; đức thờ phượng khiến chúng ta dâng lên Thiên Chúa sự thờ phượng xứng hợp; đức công bình khiến chúng ta đáp lại mọi người những gì chúng ta còn mắc nợ; đức dũng cảm và tiết độ chế ngự phần giác quan của linh hồn để ngăn nó lạc lối và giúp nó cộng tác theo cách riêng vào tiến trình hướng về Thiên Chúa của chúng ta.113

Trong số các nhân đức đối thần, đức tin phú bẩm, thứ khiến chúng ta tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải vì chính Người là Sự Thật, giống như một giác quan thiêng liêng ở cấp độ cao hơn cho phép chúng ta lắng nghe một bản hòa âm thần linh của Thiên Chúa mà không một phương thế tri thức nào khác có thể tiếp cận được. Điều này giải thích tại sao có một sự khác biệt rất lớn giữa một nghiên cứu thuần túy lịch sử về Tin Mừng và các phép lạ xác nhận Tin Mừng với hành vi siêu nhiên của đức tin mà nhờ đó, chúng ta tin vào Tin Mừng cũng như vào lời Chúa. Một người rất uyên bác và chân thành tìm kiếm chân lý quả có thể thực hiện một nghiên cứu lịch sử và phê bình về Tin Mừng cùng với các phép lạ xác nhận, tuy nhiên, người ấy vẫn chưa thể đi tới chỗ mà anh ta bắt đầu tin. Người ấy sẽ chỉ tin một cách siêu nhiên sau khi nhận được ân sủng đức tin, ân sủng này dẫn người ấy vào một thế giới cao hơn và thậm chí còn trổi vượt hơn đời sống tự nhiên của các thiên thần. “Đức tin... là một ân huệ của Thiên Chúa,”114 là nền tảng của sự công chính hóa, vì nó cho chúng ta biết mục đích siêu nhiên mà chúng ta phải hướng tới là gì.115 Giáo Hội đã định nghĩa trái ngược với những người theo phái Bán Pelagian rằng ngay cả khởi điểm của đức tin cũng là một quà tặng ân sủng.116 Tất cả các nhà thần học vĩ đại đều đã chỉ ra rằng đức tin phú bẩm tự bản chất là siêu nhiên và tính chất siêu nhiên của nó thì cao hơn rất nhiều so với các phép lạ khả giác và những lời sấm báo trước một tương lai bất tất trong trật tự tự nhiên, chẳng hạn như thời điểm kết thúc của một cuộc chiến. Trên thực tế, theo giáo huấn của Giáo Hội là nơi có sứ mệnh bảo toàn mặc khải, đức tin làm cho chúng ta tán thành một cách siêu nhiên và bất khả ngộ vào những gì Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về sự sống sâu thẳm nơi Người.

117 Do đó, đức tin phú bẩm thuộc về một trật tự cao cả hơn nhiều so với việc nghiên cứu Tin Mừng trên phương diện phê bình và lịch sử. Như cha Lacordaire đã nói: “Một học giả có thể nghiên cứu Giáo lý Công giáo mà không hề chua cay bác bỏ, thậm chí có thể lặp đi lặp lại: ‘Anh thật có phúc khi có đức tin; tôi cũng muốn có đức tin mà không thể tin.’” Và người ấy đã nói sự thật: anh muốn nhưng không thể (hay chưa thể), vì việc nghiên cứu và đức tin tốt không phải lúc nào cũng chinh phục được sự thật, vì thế, có thể thấy rằng xác tín lý tính rõ ràng không phải là xác tín cơ bản mà Giáo lý Công giáo dựa vào. Do đó, học giả này biết Giáo lý Công giáo; anh thừa nhận các sự kiện của nó; anh cảm nhận được sức mạnh của nó; anh đồng ý rằng đã từng có một người tên là Giêsu Kitô, một người đã sống và đã chết một cách phi thường. Anh xúc động trước máu của các vị tử đạo, trước giai đoạn thành hình của Giáo Hội sơ khai; anh hẳn sẽ sẵn lòng nói rằng đó là hiện tượng vĩ đại nhất từng xuất hiện trên thế giới. Anh gần như sẽ nói rằng đó là sự thật. Nhưng anh vẫn không kết luận; anh cảm thấy mình bị đè nén bởi sự thật, giống như đang trong một giấc mơ, nơi người ta có nhìn mà không thấy. Nhưng rồi sẽ đến ngày mà học giả này quỳ xuống; anh cảm nhận được nỗi khốn cùng của kiếp người, anh giơ tay lên trời và kêu lớn: ‘Từ vực thẳm, con kêu cầu Người, lạy Chúa!’ Chính vào lúc ấy, một điều gì đó xảy ra ở nơi anh, giống như có vảy bong ra khỏi mắt, một mầu nhiệm được hoàn tất và anh đã biến đổi. Anh trở nên một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng; anh có thể thanh thản đón nhận cái chết, vì anh đã chinh phục được sự thật.”118

Nếu đức tin đắc thủ, thứ nảy sinh từ việc suy xét trên phương diện lịch sử về Tin Mừng và các phép lạ xác nhận Tin Mừng, là đủ để đạt tới động cơ mô thức [hay nguyên nhân chính] của đức tin Kitô giáo, thì đức tin phú bẩm, cùng với đức cậy và đức mến phú bẩm hẳn sẽ đều vô dụng. Khi đó, thiện chí tự nhiên, như những người theo phái Pelagian đã nói, là đủ. Theo quan điểm của họ, ân sủng và các nhân đức phú bẩm không tất yếu cần thiết cho ơn cứu độ, nhưng chỉ giúp cho việc hoàn tất các hành vi của đời sống Kitô hữu trở nên dễ dàng hơn.119

Đức tin phú bẩm giống như một khả năng thính giác siêu nhiên, một cảm quan âm nhạc cao cả hơn cho phép chúng ta nghe được những bản giao hưởng thiêng liêng của vương quốc thiên đàng, và theo một cách nào đó, nghe được tiếng nói của Thiên Chúa qua các ngôn sứ và Con của Người trước khi chúng ta được thấy Người diện đối diện. Giữa người không tin, nhà nghiên cứu Tin Mừng và người tín hữu có một sự khác biệt tương tự như sự khác biệt giữa hai người đang nghe một bản giao hưởng của Beethoven, trong đó, một người có năng khiếu âm nhạc còn người kia thì không. Cả hai đều nghe được tất cả những nốt nhạc của bản giao hưởng, nhưng chỉ có một người nắm bắt được ý nghĩa và linh hồn của nó. Tương tự như vậy, chỉ có người tin mới tán thành một cách siêu nhiên với Tin Mừng cũng như với lời siêu nhiên của Thiên Chúa; họ tán thành nó ngay cả khi không được dạy dỗ, trong khi người có học, với tất cả các phương thế phê bình của mình, lại không thể tán thành nó theo cách này nếu người ấy không có đức tin phú bẩm. “Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình.”120

Đây là điều đã thúc đẩy cha Lacordaire nói rằng: “Những gì diễn ra trong chúng ta khi chúng ta tin là hiện tượng của một ánh sáng sâu sắc và siêu nhiên. Tôi không nói rằng những sự bên ngoài không có tác động gì lên chúng ta như những động cơ lý tính của xác tín; nhưng chính hành vi xác tín tối cao này, mà tôi đang nói đến, tác động trực tiếp lên chúng ta như một hiện tượng soi sáng (ánh sáng của đức tin phú bẩm); tôi thậm chí còn muốn nói thêm rằng nó giống như một hiện tượng xuyên sáng... Chúng ta chịu tác động bởi một ánh sáng xuyên thấu... Bởi nếu không thì làm sao sự tán thành của chúng ta, vốn tự nhiên và thuần lý, lại có thể tương xứng với một đối tượng mà tự nó vượt quá lý trí và tự nhiên?...121 Tương tự như vậy, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, trực giác đồng cảm giữa hai người có thể thực hiện điều mà lôgic đã không thể làm được trong rất nhiều năm. Và đôi khi, sự soi sáng bất chợt trong giây lát lại mở trí cho một bậc thiên tài.

“Một người trở lại đạo sẽ nói với bạn: ‘Tôi đã đọc, đã lý luận, đã ước ao, nhưng không đạt được gì. Rồi một ngày nọ, tôi không biết bằng cách nào, từ nơi góc phố hay bên lò sưởi, tôi không biết đã có chuyện gì xảy ra, nhưng tôi đã không còn là chính mình nữa; tôi đã tin... Những gì xảy ra trong tôi vào khoảnh khắc cuối cùng để chạm tới xác tín có bản tính hoàn toàn khác với những gì đã xảy ra trước đó. Hãy nhớ lại chuyện hai môn đệ trên đường đến làng Emmau.’”122

Năm mươi năm trước, một người chưa biết đến radio hẳn sẽ ngạc nhiên khi nghe người ta nói rằng sẽ đến ngày một bản giao hưởng đang được trình diễn ở Viênna lại có thể được nghe ở Rôma. Nhờ đức tin phú bẩm, chúng ta nghe được một bản giao hưởng thiêng liêng bắt nguồn từ thiên đàng. Những hợp âm hoàn hảo của bản giao hưởng này được gọi là các mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Nhập Thể, Cứu Chuộc, Thánh Lễ và sự sống đời đời. Nhờ thính giác cao cả này, con người được dẫn đưa tới cõi đời đời; và anh ta hẳn phải luôn tiến tới đỉnh cao là nơi mà bản hòa âm này phát xuất.