“Quê hương của chúng ta ở trên trời.” — Pl 3,20
Như chúng ta đã nói, đời sống nội tâm giả thiết một tình trạng ân sủng vốn là hạt giống của đời sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, tình trạng ân sủng nơi mỗi trẻ sơ sinh sau khi chịu phép rửa và nơi mỗi hối nhân sau khi được tha tội vẫn chưa đủ để tạo nên điều thường được gọi là đời sống nội tâm của người Kitô hữu. Cùng với nó, còn phải có một cuộc chiến đấu nhằm chống lại những gì có thể khiến chúng ta sa ngã tội trở lại và một khuynh hướng nghiêm túc của linh hồn hướng về Thiên Chúa.
Từ góc độ này, để có một ý niệm rõ ràng về việc đời sống nội tâm nên như thế nào, chúng ta cần đối chiếu nó với cuộc đối thoại thân mật mà mỗi người đều có với chính mình. Nếu là một người tín hữu, dưới tác động của ân sủng, cuộc đối thoại thân mật này sẽ được nâng lên, được biến đổi và dần trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Nhận định này là điều hết sức sơ đẳng; tuy nhiên, những chân lý mang tính sống còn và sâu sắc nhất lại là những chân lý sơ đẳng mà chúng ta đã nghiền ngẫm từ lâu, đã sống theo nó, và sau cùng, trở thành đối tượng chiêm niệm gần như liên tục.
Bây giờ, chúng ta sẽ lần lượt suy xét hai dạng thức đối thoại thân mật: một mang tính nhân loại, một mang tính thần linh hay siêu nhiên hơn.
Cuộc đối thoại với chính mình
Ngay khi một người không còn bận rộn với những thứ bên ngoài và ngừng trò chuyện với đồng loại, ngay khi anh ta ở một mình, dù trên những con phố ồn ào của một thành phố lớn, anh ta bắt đầu tự đối thoại với chính mình. Nếu còn trẻ, anh ta thường nghĩ về tương lai; nếu đã già, anh ta thường nghĩ về quá khứ, và những kinh nghiệm sống hạnh phúc hay bất hạnh thường khiến anh ta đánh giá về con người và các sự việc rất khác nhau...
Nếu một người vốn dĩ ích kỷ, cuộc đối thoại thân mật với chính mình của anh ta sẽ khởi đi từ dục vọng hoặc tính kiêu ngạo. Anh ta tự nói với mình về đối tượng của lòng tham, của sự ghen tỵ; anh ta tìm thấy trong đó nỗi buồn và sự chết, anh ta cố gắng trốn tránh chính mình, sống ngoài chính mình, tìm cách giải khuây để quên đi sự trống rỗng và hư vô của cuộc đời. Trong cuộc đối thoại thân mật với chính mình của người ích kỷ, có một sự tự nhận thức về mình và một tình yêu dành cho bản thân ở mức độ rất kém.
Anh ta đặc biệt quen thuộc với phần giác quan hay cảm giác của linh hồn, vốn là thành phần chung của người và động vật. Vì thế, anh ta có những niềm vui và nỗi buồn hết sức cảm tính tùy thuộc vào thời tiết dễ chịu hay khó chịu, khi anh ta thắng hay thua trong chuyện tiền nong. Anh ta có những ham muốn và ác cảm theo cùng một trật tự cảm tính như vậy; và khi bị phản đối, anh ta có những khoảnh khắc mất kiên nhẫn và tức giận do lòng tự ái quá mức thúc đẩy. Nhưng kẻ ích kỷ lại biết rất ít về phần thiêng liêng của linh hồn, vốn là thành phần chung của thiên thần và loài người. Ngay cả khi tin vào tính thiêng liêng của linh hồn và các năng lực cao hơn của mình, tức trí năng và ý chí, thì anh ta vẫn không sống trong trật tự thiêng liêng. Có thể nói, anh ta không có tri thức mang tính kinh nghiệm về phần cao hơn của mình và không dành cho nó một tình yêu đủ mức. Vì nếu biết nó, anh ta hẳn đã tìm thấy trong nó hình ảnh của Thiên Chúa và sẽ bắt đầu yêu bản thân không phải theo cách ích kỷ vì chính mình, nhưng vì Chúa. Và mặc dù thường cố gắng bộc lộ sự thông minh khéo léo, mà có thể là sự xảo quyệt, nhưng tư tưởng của anh hầu như luôn hướng về những gì thấp kém ở nơi mình; thay vì vươn lên, trí năng của anh lại hướng xuống, thay vì chiêm ngắm Thiên Chúa là chân lý tối thượng, trí năng này thường sa đà vào những sai lầm và đôi khi ngoan cố để bảo vệ sai lầm bằng mọi giá. Người ta nói rằng, nếu đời sống không ngang bằng với tư tưởng, thì tư tưởng sau cùng sẽ sa sút và tụt xuống ngang bằng với đời sống. Tất cả đều suy tàn, và những xác tín cao cả nhất nơi một người cũng dần trở nên yếu ớt.
Cuộc đối thoại thân mật của kẻ ích kỷ với chính mình cứ như thế mà đi đến cái chết, và do đó, không phải là một đời sống nội tâm. Lòng tự ái dẫn anh ta đến chỗ muốn biến mình thành trung tâm của mọi sự và thu hút mọi sự về mình. Vì điều này là bất khả thi, nên anh thường kết thúc trong sự vỡ mộng và chán ghét; anh trở nên không thể chịu đựng được chính mình cũng như người khác, và sau cùng, đi tới chỗ căm ghét chính mình vì muốn yêu bản thân vượt quá những gì đúng mức. Đôi khi, anh cũng kết thúc bằng sự chán ghét cuộc sống vì thèm muốn vô độ những gì thấp kém trong đó.89
Nếu một người chưa ở trong tình trạng ân sủng bắt đầu tìm kiếm sự thiện, thì cuộc đối thoại thân mật của người ấy với chính mình đã hoàn toàn khác. Chẳng hạn, người ấy tự vấn chính mình về những điều cần thiết để sống xứng đáng và để trợ giúp gia đình. Điều này đôi khi khiến người ấy bận tâm rất nhiều; người ấy cảm thấy sự yếu đuối của mình và thấy nhu cầu của việc tín thác không phải vào chính mình nữa, nhưng vào Chúa.
Đang khi trong tình trạng tội trọng, người ấy vẫn có thể có đức tin và đức cậy Kitô giáo, những nhân đức vẫn tồn tại trong người Kitô hữu ngay cả khi chúng ta đánh mất đức ái, miễn là chúng ta chưa phạm tội trọng do hoài nghi, tuyệt vọng hay tự phụ. Khi ấy, cuộc đối thoại thân mật của người ấy với chính mình đôi khi được soi sáng bởi ánh sáng siêu nhiên của đức tin; thi thoảng, anh nghĩ đến đời sống vĩnh cửu và khao khát nó, mặc dù khao khát này vẫn còn yếu ớt. Đôi khi, anh nhận được một sự linh hứng đặc biệt dẫn anh vào nhà thờ để cầu nguyện.
Sau cùng, nếu người ấy ít nhất đã ăn năn tội và lãnh nhận Bí tích hòa giải, anh ta sẽ được phục hồi tình trạng ân sủng và đức ái, đức mến đối với Thiên Chúa và tha nhân. Kể từ đó, khi ở một mình, cuộc đối thoại thân mật của anh với chính mình sẽ thay đổi. Anh bắt đầu yêu bản thân mình một cách thánh thiện không phải vì bản thân nữa, nhưng vì Chúa, và anh cũng yêu thương những người thuộc về mình vì Ngài; anh bắt đầu hiểu rằng mình phải tha thứ cho kẻ thù và yêu thương họ, cũng như mong muốn đời sống vĩnh cửu cho họ như anh muốn cho mình. Tuy nhiên, cuộc đối thoại thân mật của một người trong tình trạng ân sủng thường vẫn bị vấy bẩn bởi sự ích kỷ, tự ái, dục vọng và tính kiêu ngạo. Những tội lỗi này không còn là tội trọng nữa, nhưng là tội nhẹ; mặc dù vậy, nếu tiếp tục tái diễn, chúng sẽ khiến anh sa vào tội trọng, tức là trở lại cái chết về mặt thiêng liêng. Nếu điều này xảy ra, người ấy lại có xu hướng chạy trốn khỏi chính mình vì những gì anh tìm thấy nơi mình giờ đây không còn là sự sống nữa, nhưng là sự chết. Thay vì suy ngẫm một cách có ích về vấn đề này, anh có thể đẩy mình tới chỗ chết bằng cách lao vào lạc thú, vào sự thỏa mãn nhục dục và tính kiêu ngạo.
Nhưng bất chấp tất cả, trong những giờ phút cô đơn của cuộc đời, cuộc đối thoại thân mật này lại bắt đầu, như thể để chứng minh cho anh rằng nó không thể dừng lại. Anh muốn ngắt lời nó, nhưng vô ích. Ở trung tâm của linh hồn chúng ta có một nhu cầu không thể kiềm chế đòi phải được thỏa mãn. Quả thực, chỉ có Thiên Chúa mới có thể đáp ứng nhu cầu này, và giải pháp duy nhất cho linh hồn là ngay lập tức bước đi trên con đường dẫn nó tới Người. Linh hồn phải đối thoại với một ai đó khác ngoài chính nó. Tại sao? Bởi vì nó không phải là cùng đích của chính mình; bởi vì mục đích của nó là Thiên Chúa hằng sống, và nó hoàn toàn không thể yên nghỉ ở bất cứ nơi đâu ngoại trừ trong Ngài. Như Thánh Augustinô đã nói: “Linh hồn chúng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”90
Cuộc đối thoại nội tâm với Thiên Chúa
Đời sống nội tâm chính xác là sự nâng lên và biến đổi từ cuộc đối thoại thân mật mà mỗi người đều có với chính mình ngay khi nó có xu hướng trở thành cuộc đối thoại với Thiên Chúa.
Thánh Phaolô nói: “Vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa.”91 Thần Khí của Thiên Chúa dần dần bày tỏ cho những linh hồn thiện chí được biết Thiên Chúa mong đợi gì nơi họ và muốn ban cho họ điều gì. Ước gì chúng ta ngoan ngoãn đón nhận tất cả những điều Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta! Chúa đã phán với những ai tìm kiếm Người: “Ngươi đã chẳng tìm Ta nếu ngươi chưa thấy Ta.”
Nhưng sự biểu lộ tiệm tiến của Thiên Chúa đối với linh hồn tìm kiếm Người không phải là không có sự đấu tranh; linh hồn phải tự giải thoát mình khỏi những ràng buộc là hậu quả của tội, và theo lời Thánh Phaolô, dần làm tan biến đi “con người cũ” và hình thành nên “con người mới”.
Ngài đã viết cho các tín hữu Rôma rằng: “Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí.”92
Điều mà Thánh Phaolô gọi là “con người nội tâm” chính là điều căn bản và cao quý nhất trong chúng ta: lý trí được soi sáng bởi đức tin và ý chí, vốn phải chi phối cảm xúc là điểm chung ở người và động vật.
Ngài cũng nói: “Cho nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới.”93 Tuổi trẻ thiêng liêng của người ấy luôn được đổi mới, như tuổi sung mãn của chim ưng, nhờ những ân sủng mà anh ta nhận được hằng ngày. Điều này đúng đến nỗi dù đã chín mươi tuổi, vị linh mục bước tới bàn thờ vẫn luôn có thể nói: “Con hân hoan bước đến bàn thờ Chúa, Chúa là hoan lạc tuổi xuân xanh con.”94
Thánh Phaolô nhấn mạnh tư tưởng này trong thư gửi tín hữu Côlôxê: “Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu. Vậy không còn phải phân biệt Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người.”95 Con người bên trong được đổi mới không ngừng theo hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ già đi. Sự sống của Thiên Chúa vượt trên quá khứ, hiện tại và tương lai; nó được đo lường bằng khoảnh khắc duy nhất của sự vĩnh cửu bất động. Cũng vậy, Đức Kitô phục sinh không còn chết nữa, Người sở hữu tuổi thanh xuân vĩnh cửu. Giờ đây, Người ban sức sống cho chúng ta bằng những ân sủng luôn tươi mới để làm cho chúng ta trở nên giống như Người. Thánh Phaolô cũng viết những lời tương tự cho các tín hữu Êphêxô: “Vì lý do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha... Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.”96
Trong lời nhắn nhủ này, Thánh Tông đồ đã mô tả rõ ràng về đời sống nội tâm sâu sắc, một đời sống luôn hướng đến việc chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa và sống nhờ nó trong sự kết hiệp ngày càng mật thiết hơn với Người. Ngài viết thư tín này không chỉ cho một số linh hồn có đặc quyền, nhưng cho tất cả các Kitô hữu ở Êphêxô cũng như ở Côrintô.
Hơn nữa, ngài nói thêm: “Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện... Hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.”97
Dưới ánh sáng của những lời đầy cảm hứng này, những lời nhắc lại tất cả những gì Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta trong các mối phúc và tất cả những gì Người đã ban cho chúng ta khi chết vì chúng ta, chúng ta có thể định nghĩa đời sống nội tâm như sau: Đó là một đời sống siêu nhiên giúp chúng ta hướng đến sự kết hiệp với Thiên Chúa và dẫn dắt chúng ta tới đó bằng tinh thần bỏ mình và cầu nguyện đích thực.
Nó ngụ ý một giai đoạn mà trong đó, sự thanh tẩy chiếm ưu thế, cùng với một giai đoạn khác là sự khai sáng tiệm tiến hướng đến sự kết hiệp với Thiên Chúa, giống như những gì đã được dạy trong mọi truyền thống, do đó, tạo ra sự phân biệt giữa con đường thanh tẩy của những người mới bắt đầu, con đường khai sáng của người thành thạo và con đường kết hiệp của người hoàn thiện.
Như thế, đời sống nội tâm ngày càng trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, trong đó, con người dần giải thoát mình khỏi cái tôi vị kỷ, khỏi thói tự yêu mình, khỏi nhục dục và tính kiêu ngạo, đồng thời trong đó, qua lời cầu nguyện thường xuyên, con người cầu xin Thiên Chúa ban cho mình những ân sủng luôn tươi mới mà anh ta cần.98
Kết quả là, con người bắt đầu nhận biết bằng kinh nghiệm không chỉ phần thấp kém của hữu thể mình, nhưng còn cả phần cao cả nhất. Trên hết, anh ta bắt đầu nhận biết Thiên Chúa một cách sống động và bắt đầu có kinh nghiệm về những điều thuộc về Thiên Chúa. Dần dần, ý nghĩ về cái tôi của mình, thứ mà trước đó con người đã quy hướng mọi sự về nó, sẽ nhường chỗ cho ý nghĩ thường trực về Thiên Chúa; và tình yêu ích kỷ dành cho bản thân cùng với những gì thấp kém hơn ở nơi anh ta cũng dần nhường chỗ cho tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn trong Người. Cuộc đối thoại nội tâm của con người thay đổi đến mức Thánh Phaolô có thể nói: “Quê hương của chúng ta ở trên trời.”99 Đây cũng là điểm mà Thánh Tôma thường nhấn mạnh.100
Do đó, đời sống nội tâm nơi một linh hồn đang ở trong tình trạng ân sủng là một đời sống khiêm nhường, bỏ mình, giàu đức tin, đức cậy và đức ái, với sự bình an được ban cho nhờ sự quy phục dần dần những cảm xúc và ước muốn của mình trước tình yêu dành cho Thiên Chúa, Đấng sẽ là đối tượng cho mối phúc của chúng ta.
Vì thế, để có một đời sống nội tâm, thì một hoạt động tông đồ bên ngoài cực kỳ năng động hay một tri thức thần học uyên bác đều không đủ. Mà tri thức thần học cũng không nhất thiết phải có. Trong khi một người dù mới bắt đầu nhưng đã có lòng quảng đại, có tinh thần hy sinh và cầu nguyện chân thành, thì đã sở hữu một đời sống nội tâm đích thực, một đời sống cần được tiếp tục phát huy.
Trong cuộc đối thoại nội tâm với Thiên Chúa vốn có xu hướng trở nên liên tục, linh hồn lên tiếng bằng lời cầu nguyện, oratio, tức là lời nói ở dạng tuyệt hảo nhất. Lời nói như vậy hẳn cũng tồn tại ngay cả khi Thiên Chúa chỉ tạo ra một linh hồn hay một thiên thần; bởi lẽ thụ tạo này, được phú bẩm trí năng và tình yêu, sẽ thưa chuyện với Đấng Tạo Hóa của mình. Lời cầu nguyện có lúc mang hình thức khẩn cầu, có lúc mang hình thức thờ lạy và tạ ơn; nó luôn luôn là sự nâng linh hồn lên với Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đáp lại bằng cách nhắc lại trong tâm trí chúng ta những gì đã được nói với chúng ta trong Tin Mừng và những gì hữu ích cho việc thánh hóa khoảnh khắc hiện tại. Chẳng phải Chúa Kitô đã phán: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”101 hay sao?
Như thế, con người ngày càng trở nên con cái Thiên Chúa; họ nhận ra cách sâu sắc hơn rằng Thiên Chúa là Cha của mình, và thậm chí, họ ngày càng trở nên một trẻ nhỏ trong mối tương quan với Thiên Chúa. Họ hiểu điều mà Chúa Kitô ngụ ý khi Người nói với ông Nicôđêmô rằng một người phải trở về cung lòng Thiên Chúa để có thể được tái sinh về mặt thiêng liêng, và mỗi ngày một thân mật hơn với Người nhờ sự tái sinh thiêng liêng vốn có nét tương đồng xa xôi với sự tái sinh vĩnh cửu của Ngôi Lời.102 Các thánh thực sự đã đi theo con đường này, và kể từ đó, giữa linh hồn các ngài và Thiên Chúa có một cuộc đối thoại không bao giờ ngừng nghỉ. Vì thế, người ta nói rằng Thánh Đa Minh chỉ biết nói về Chúa hoặc với Chúa mà thôi; đây là điều khiến ngài có thể luôn luôn bác ái với mọi người và đồng thời, là vị thánh khôn ngoan, mạnh mẽ và công bình.
Cuộc đối thoại với Thiên Chúa như vậy được thiết lập nhờ tác động của Chúa Kitô, Đấng Trung Gian của chúng ta, như phụng vụ vẫn thường nói tới, cách đặc biệt là trong bài Jesu dulcis memoria [Suy tưởng ngọt ngào về Giêsu], một bài ca diễn tả tuyệt vời về đời sống nội tâm của người Kitô hữu:
Jesu, spes poenitentibus,
Quam pius es petentibus!
Quam bonus te quaerentibus!
Sed quid invenientibus!
Nec lingua valet dicere,
Nec littera exprimere,
Expertus potest credere
Quid sit Jesum diligere.
Giêsu, miềm hy vọng của những tâm hồn thống hối,
Niềm hoan lạc cho những ai hiền lành!
Đấng nhân từ với những ai sa ngã!
Đấng tốt lành với những ai kiếm tìm!
Nhưng với những người kẻ đã thấy Người thì sao?
Ôi, cả ngôn từ và chữ viết đều không sao diễn tả:
Tình yêu của Giêsu là gì
Chỉ những ai Người yêu thương mới biết.
Chúng ta hãy cố gắng trở thành một trong số những người tìm kiếm Chúa, những người mà người ta nói rằng: “Ngươi đã chẳng tìm Ta nếu ngươi chưa thấy Ta.”
Chú thích
89 X. IIa IIae, q. 25, a. 7: Liệu tội nhân có yêu bản thân mình không. “Vì kẻ dữ không hiểu rõ về mình, nên họ không yêu mình đúng cách, nhưng chỉ yêu những gì họ nghĩ đó là mình. Nhưng người lành thì hiểu rõ về mình, nên họ thực sự yêu chính mình... xét như con người bên trong... và họ thích thú khi trở vào tâm hồn mình... Đàng khác, kẻ dữ không muốn được bảo tồn trong sự toàn vẹn cùng với con người bên trong, họ không muốn những điều thiện hảo thiêng liêng cho con người đó và cũng không làm việc vì mục đích đó, họ không thích thú khi ở một mình với con người bên trong của mình bằng cách trở vào nội tâm, bởi lẽ bất cứ điều gì họ tìm thấy ở đó, cho dù là quá khứ, hiện tại hay tương lai, đều xấu xa và khủng khiếp; họ cũng không đồng ý với chính mình vì sự cắn rứt của lương tâm.”
90 The Confessions, I, ch. I. “Tâm hồn chúng con khắc khoải, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.” Đây là bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa qua khát vọng tự nhiên về hạnh phúc đích thực và vững bền, điều chỉ có thể tìm thấy nơi Sự Thiện Tối Thượng được nhận biết ít là theo cách không hoàn hảo, được yêu mến hơn cả chính chúng ta và trên hết mọi sự. Chúng tôi đã khai triển bằng chứng này trong La Providence et la confiance en Dieu [Sự quan phòng và Niềm tín thác vào Thiên Chúa], tr. 50-64.
91 X. 1 Cr 2,11
92 Rm 7,21-13.
93 X. 2 Cr 4,16.
94 Tv 42,4.
95 Cl 3,9-11.
96 Ep 3,14-19.
97 Sđd, 4,23 tt.; 5,2.
98 Tác giả của sách The Imitation of Christ [Noi Gương Chúa Kitô], ngay từ chương đầu tiên của Quyển I, đã giải thích rõ bản chất của đời sống nội tâm khi nói: “Giáo huấn của Chúa Kitô tuyệt vời hơn mọi lời khuyên của các thánh, và ai có được tinh thần của Người sẽ tìm thấy trong đó sức mạnh tiềm ẩn. Ngày nay, có nhiều người thường xuyên nghe Tin Mừng, nhưng lại ít có sự quan tâm đến nó, vì họ không có tinh thần của Chúa Kitô. Tuy vậy, bất cứ ai muốn hiểu biết đầy đủ những lời dạy của Chúa Kitô đều phải cố gắng lấy đời sống của Người làm khuôn mẫu cho toàn bộ đời sống của mình.”
99 Pl 3,20.
100 Đặc biệt trong hai chương quan trọng của Contra Gentes (IV, 21, 22) về những tác động và dấu chỉ cho sự ngự trị của Ba Ngôi Chí Thánh trong chúng ta.
Đầu chương 22, ngài viết: “đối thoại với bạn hữu là đặc tính cao nhất của tình bạn. Hơn nữa, cuộc đối thoại của con người với Thiên Chúa là nhờ việc chiêm ngắm Người, như thánh Phaolô thường nói: ‘Cuộc đối thoại [quê hương] của chúng ta ở trên trời’ (Pl 3,20). Như thế, vì Chúa Thánh Thần khiến chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nên nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta được trở thành những người chiêm ngắm Thiên Chúa: từ đó, thánh Phaolô nói: ‘Tất cả chúng ta, mặt không màn che, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí’” (2 Cr 3,18).
Những ai suy ngẫm về chương 21 và 22 của cuốn số IV trong Contra Gentes sẽ có thể có được một ý niệm rõ ràng về việc liệu, theo quan điểm của Thánh Tôma, sự chiêm niệm thiên phú về các mầu nhiệm đức tin có phải là con đường thánh thiện thông thường hay không.
101 Ga 14,26.
102 Thánh Phanxicô de Sales đã nhận xét ở đâu đó trong các tác phẩm của ngài rằng, một mặt, khi một người lớn lên, anh ta nên tự túc tự mãn và ngày càng ít phụ thuộc vào người mẹ, người ngày càng trở nên ít cần thiết hơn đối với người con khi anh ta khôn lớn, đặc biệt là khi anh ta đạt đến sự trưởng thành đầy đủ; trái lại, khi con người nội tâm lớn lên, anh ta ngày càng ý thức hơn về tư cách làm con theo nghĩa thần linh của mình, điều này làm cho anh ta trở thành con cái của Thiên Chúa, và anh ta ngày càng trở thành con cái Thiên Chúa hơn, thậm chí đến mức có thể nói, được trở lại cung lòng Thiên Chúa. Những người được chúc phúc trên thiên đàng luôn ở trong cung lòng Thiên Chúa.