Tác phẩm này là bản tóm tắt của một khóa học về thần học khổ chế và thần bí mà chúng tôi đã giảng dạy trong hai mươi năm tại trường Angelicum ở Rôma. Trong cuốn sách này, theo cách thức đơn giản và chắt lọc hơn, chúng tôi rút ngắn việc nghiên cứu cùng một tập hợp những chủ đề mà chúng tôi đã đề cập trong hai tác phẩm khác: Christian Perfection and Contemplation [Sự Hoàn Thiện và Chiêm Niệm Kitô Giáo] và L’amour de Dieu et la croix de Jesus [Tình Yêu của Thiên Chúa và Thập Giá của Chúa Giêsu]. Thể theo yêu cầu, trong cuốn sách này, chúng tôi xin trình bày nghiên cứu trước đây của mình dưới dạng một bản tổng hợp, trong đó, các phần khác nhau có tác dụng cân bằng và soi sáng cho nhau. Từ những lời khuyên nhận được, chúng tôi đã loại bỏ khỏi bản trình bày này những điều không cần thiết phải thảo luận trở lại. Một cuốn sách được định hình như vậy sẽ có thể tiếp cận được đối với mọi linh hồn nội tâm.
Chúng tôi không xây dựng nghiên cứu này dưới dạng thức một cuốn giáo khoa, vì chúng tôi không tìm cách tích lũy tri thức, như thường được thực hiện với sự quá tải về học thuật, nhưng là để định hình tâm trí, mang lại cho nó sự vững chắc của các nguyên lý và tính mềm dẻo cần thiết hầu mở ra sự đa dạng trong việc áp dụng chúng và để nó có khả năng suy xét các vấn đề có thể nảy sinh. Các ngành khoa học nhân văn trước đây vẫn được quan niệm theo cách này, trong khi ngày nay, tâm trí con người thường bị biến thành những cuốn giáo khoa, thành những kho tàng, hay thậm chí, thành những tập hợp các quan điểm và công thức, trong khi chính nó không còn tìm cách để hiểu những nguyên nhân và hiệu quả sâu xa của chúng.
Hơn nữa, những vấn đề về tu đức, vì chúng rất quan trọng và đôi khi là những điều ẩn tàng nhất, không dễ gì rơi vào khuôn khổ của một cuốn giáo khoa; hay nói rõ hơn, việc đóng khung những đề tài này có nguy cơ rất lớn là đưa tới thái độ nông cạn trong việc phân loại các sự vật một cách chất thể và tìm cách đưa một cỗ máy nhân tạo vào thay thế cho động lực sâu sắc của đời sống ân sủng, của những nhân đức phú bẩm và của các ân huệ. Điều này giải thích tại sao các tác giả thiêng liêng vĩ đại không trình bày tư tưởng của họ dưới dạng sơ đồ, thứ có nguy cơ tạo ra một bộ xương khô làm nơi cho chúng ta tìm kiếm sự sống.
Trong những vấn đề này, chúng tôi đặc biệt theo chân ba vị Tiến sĩ Hội Thánh, những người đã bàn luận về cùng một chủ đề theo quan điểm riêng của mình, đó là Thánh Tôma, Thánh Gioan Thánh Giá và Thánh Phanxicô de Sales. Dựa trên các nguyên lý thần học của Thánh Tôma, chúng tôi đã cố gắng nắm bắt những gì truyền thống nhất trong học thuyết thần bí từ hai tác phẩm: The Dark Night [Đêm Tối] của Thánh Gioan Thánh Giá và The Treatise on the Love of God [Khảo Luận về Tình Yêu đối với Thiên Chúa] của Thánh Phanxicô de Sales.
Nhờ đó, chúng tôi tìm được sự xác nhận cho điều mà chúng tôi tin là chân lý về sự chiêm niệm thiên phú hướng đến các mầu nhiệm đức tin, điều mà chúng tôi ngày càng thấy phù hợp với con đường thánh thiện [hay nên thánh] thông thường và cần thiết về mặt luân lý cho sự hoàn thiện trọn vẹn của đời sống Kitô hữu. Ở một số tâm hồn đã có sự tiến bộ, sự chiêm niệm thiên phú này chưa xuất hiện như một trạng thái thường xuyên, nhưng chỉ thi thoảng xảy ra như một hành vi nhất thời và ít nhiều ẩn giấu trong những khoảng thời gian đó, dù nó vẫn soi sáng toàn bộ đời sống của họ. Tuy nhiên, nếu những tâm hồn này quảng đại, ngoan ngoãn trước Chúa Thánh Thần, trung thành với việc cầu nguyện và hồi tâm liên tục, thì đức tin của họ sẽ ngày càng trở nên chiêm niệm, thấm nhuần và tràn đầy hương vị; nó hướng dẫn họ trong hành động và đồng thời, làm cho hành động đó ngày càng sinh hoa kết trái. Theo nghĩa này, chúng tôi chủ trương và giải thích điều mà chúng tôi cho là học thuyết truyền thống vốn ngày càng được chấp nhận rộng rãi hơn ngày nay, đó là: khúc dạo đầu thông thường của thị kiến vinh phúc, sự chiêm niệm thiên phú về các mầu nhiệm đức tin, nhờ sự ngoan ngoãn trước Chúa Thánh Thần, nhờ cầu nguyện và thập giá, có thể đạt tới bởi mọi linh hồn sốt sắng nội tâm.
Chúng tôi cũng tin rằng, theo học thuyết của các tác giả thiêng liêng vĩ đại nhất, đặc biệt là Thánh Gioan Thánh Giá, có một mức độ hoàn thiện sẽ không thể đạt tới nếu chúng ta không trải qua những cuộc thanh tẩy thụ động, thứ có thể được gọi đúng nghĩa là một trạng thái thần bí. Điều này dường như đã được chỉ ra rõ ràng qua tất cả những lời dạy của Thánh Gioan Thánh Giá về những cuộc thanh tẩy thụ động này và đặc biệt là qua hai trích đoạn vô cùng quan trọng trong tác phẩm The Dark Night: “Đêm tối của giác quan là điều phổ biến và là chỗ của nhiều người: đây là những người mới bắt đầu”; “Trong đêm diễm phúc của sự thanh tẩy giác quan, linh hồn bắt đầu bước vào con đường của tinh thần, con đường của những người mới bắt đầu và những người thành thạo, hay còn được gọi là con đường khai sáng, con đường chiêm niệm thiên phú, trong đó, chính Thiên Chúa dạy dỗ và làm mới linh hồn mà không cần đến sự suy ngẫm hay bất cứ nỗ lực chủ động nào mà chính nó có thể tự ý thực hiện.”1
Hơn nữa, khác với khẳng định của một số tác giả, chúng tôi không cho rằng “trạng thái chiêm niệm thiên phú, theo đúng nghĩa là như vậy, là con đường thông thường duy nhất để đạt tới sự hoàn thiện của đức ái.” Trên thực tế, sự chiêm niệm thiên phú này thường chỉ bắt đầu cùng với sự thanh tẩy thụ động trên các giác quan, hay theo Thánh Gioan Thánh Giá, là khởi đầu của con đường khai sáng trọn vẹn mà ngài mô tả. Do đó, nhiều linh hồn đã bước đi trên con đường thánh thiện thông thường trước khi nhận được sự chiêm niệm thiên phú; nhưng chúng tôi có thể nói rằng, đối với con đường thánh thiện thông thường, sự chiêm niệm này nằm ở vị trí đỉnh cao của nó.
Dù không hoàn toàn đồng ý với chúng tôi, nhưng một nhà thần học đương đại, người đang là giáo sư về thần học khổ chế và thần bí tại Đại học Gregorian, đã viết về cuốn Christian Perfection and Contemplation của chúng tôi và cuốn La contemplation mystique d’apres saint Thomas d’Aquin [Sự chiêm niệm thần bí theo Thánh Tôma Aquinô] của cha Joret, O.P., rằng: “Không ai có thể nghiêm túc tranh cãi về sự thật rằng học thuyết này đã được xây dựng và đạt tới một cách xuất sắc; nó trình bày những kho tàng thiêng liêng phong phú của thần học Đa Minh với sự rõ ràng đẹp đẽ dưới hình thức dứt khoát như đã được các nhà chú giải vĩ đại của Thánh Tôma, cụ thể là Cajetan, Banez và John of St. Thomas, đưa ra vào thế kỷ XVI và XVII; sự tổng hợp như vậy đã trình bày trong sự thống nhất mạnh mẽ và hài hòa một khối lượng lớn học thuyết và kinh nghiệm của truyền thống tu đức Công giáo; giúp làm nổi bật toàn bộ giá trị của những trang đẹp nhất từ các nhà chiêm niệm vĩ đại của chúng ta.”2
Tác giả của những lời bình này còn nói thêm rằng mọi thứ trong bản tổng hợp của chúng tôi không có giá trị ngang nhau và không có cùng cấp độ về thẩm quyền. Chắc chắn rằng sau những chân lý đức tin và những kết luận thần học được chấp nhận rộng rãi, vốn là đại diện cho những gì chắc chắn nhất trong tổng thể của khoa thần học, thì những gì chúng ta đưa ra dựa trên thẩm quyền của Thánh Tôma và các nhà chú giải xuất sắc nhất của ngài không đòi buộc chúng ta phải tuân thủ ở mức độ tương tự như các nguyên tắc làm nền tảng của nó. Tuy nhiên, thật khó để loại bỏ khỏi bản tổng hợp này dù chỉ một yếu tố quan trọng duy nhất mà không làm mất đi tính vững chắc và hài hòa.
Chẳng phải một sự hài hòa đáng kể đã được hiện thực hóa khi chúng ta xét thấy rằng ngay cả những nhà phê bình tinh tế nhất cũng ghi nhận cách thức xây dựng và phát triển xuất sắc của một học thuyết hay sao?
Tổng Công Hội Dòng Cát Minh được tổ chức tại Madrid năm 1923, với các kết luận được công bố trên tạp chí El Monte Carmela (Burgos) tháng Năm cùng năm, đã công nhận sự thật về hai điểm quan trọng liên quan đến đề tài chiêm niệm thiên phú (Chủ đề V): “Trạng thái chiêm niệm được đặc trưng bởi sự chiếm ưu thế ngày càng tăng của các ân huệ Chúa Thánh Thần và bởi phương thức siêu phàm mà nhờ đó, mọi hành động tốt lành được thực hiện. Vì các nhân đức đạt tới sự hoàn thiện tối hậu trong các ân huệ và vì các ân huệ đạt tới sự hiện thực hóa hoàn hảo trong chiêm niệm, nên chiêm niệm là ‘con đường’ thông thường của sự thánh thiện và của nhân đức anh hùng có tính thường trực.”
Trong cuốn Precis de theologie ascetique et mystique [Tóm lược thần học khổ chế và thần bí] (1928), cha Tanquerey, một linh mục hội Xuân Bích, cũng đồng tình với học thuyết này đến mức ngài đã viết:
“Khi xem xét sự chiêm niệm thiên phú một cách độc lập với những hiện tượng thần bí ngoại thường mà đôi khi đi kèm với nó, thì sự chiêm niệm này không phải là điều gì đó kỳ lạ hay bất thường, nhưng là kết quả của hai nguyên nhân: sự phát triển của cơ thể siêu nhiên, cách đặc biệt là các ân huệ của Chúa Thánh Thần, và một ân sủng giúp vận hành mà tự nó không hề kỳ lạ... Đây có vẻ rõ ràng là học thuyết truyền thống như vẫn được tìm thấy trong các tác phẩm của các tác giả thần bí, từ Thánh Clêmentê thành Alêxandria đến Thánh Phanxicô de Sales... Hầu hết các tác giả này đều coi chiêm niệm là sự hoàn thiện thông thường của đời sống Kitô hữu.3
“Với cùng ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể trích dẫn những gì Thánh Inhaxiô nhà Loyola đã nói trong một thư tín nổi tiếng gửi tới Thánh Phanxicô Borgia. (Rôma, 1548): ‘Nếu không có những ân huệ này (những sự ghi dấu và soi sáng thần linh), thì mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta đều bất toàn, nguội lạnh và rối loạn. Chúng ta nên khao khát những ân huệ này để nhờ chúng, các việc làm của chúng ta có thể trở nên công chính, nhiệt thành và trong sáng để phục vụ Thiên Chúa tốt hơn.’ Năm 1924, cha Peeters, S.J. đã viết trong một nghiên cứu thú vị của ngài, Vers l’union divine par les exercices de saint Ignace [Hướng tới sự kết hiệp thần linh qua các bài linh thao của Thánh Inhaxiô] (Museum Lessianum, Bruges) rằng: “Tác giả của Sách Linh Thao nghĩ gì về ơn gọi phổ quát hướng tới trạng thái thần bí? Quả không thể nhìn nhận rằng ngài coi đó là một ngoại lệ gần như bất thường... Niềm tin tưởng lạc quan của ngài vào lòng quảng đại của Thiên Chúa đều đã được biết. Vị thánh từng nói rằng: ‘Ít có ai lại nghi ngờ về điều Chúa sẽ làm cho mình nếu người ấy không cản trở công việc mà Ngài thực hiện.’ Quả thật, chính sự yếu đuối của con người là thứ khiến cho chỉ những người ưu tú đặc biệt quảng đại mới chấp nhận những đòi hỏi lớn lao của ân sủng. Đức tính anh hùng chưa bao giờ và sẽ không bao giờ là tầm thường, và sự thánh thiện sẽ không thể được quan niệm mà không có đức tính anh hùng...
“Trong toàn bộ sách Linh Thao, với sự kiên trì làm hé lộ niềm tin sâu sắc của mình, ngài mang đến cho các môn đệ quảng đại của ngài niềm hy vọng vô hạn vào sự thông truyền thần linh, tính khả thi của việc đạt tới Thiên Chúa, của việc thưởng nếm sự ngọt ngào của thần tính, của việc bước vào sự thông truyền trực tiếp với Chúa và việc khao khát sự thân mật thần linh. Ngài nói: ‘Linh hồn càng gắn bó với Chúa và tỏ ra quảng đại với Ngài, thì càng dễ dàng đón nhận ân sủng và ân huệ thiêng liêng một cách dồi dào.’...
“Nói như vậy vẫn còn quá nhẹ. Đối với ngài, những ân sủng của lời cầu nguyện dường như không chỉ đáng khao khát, nhưng còn cần thiết đến mức không thể không có cho sự thánh thiện cao cả, cách đặc biệt là ở những người tông đồ.”4
Đây chính là điều chúng tôi muốn trình bày trong tác phẩm này. Sự đồng thuận về những vấn đề lớn kể trên đã ngày càng được thừa nhận và cũng thực tế hơn vẻ bề ngoài [dường như đối lập]. Một số anh em, những người cũng làm công tác chuyên môn về thần học như chúng tôi, đã suy xét chính bản thân đời sống ân sủng, hay hạt giống vinh quang, để đánh giá xem điều gì nên là sự phát triển trọn vẹn và thông thường của các ân huệ và các nhân đức phú bẩm, sự chuẩn bị gần kề để đón nhận thị kiến vinh phúc mà không phải trải qua luyện ngục; hay nói khác đi, sự phát triển trọn vẹn của chúng trong một linh hồn đã thanh luyện hoàn toàn, đã hưởng lợi dồi dào từ những thử thách của cuộc sống trần gian và không còn phải đền bù những lỗi lầm của mình sau khi chết. Từ đó, chúng tôi kết luận rằng sự chiêm niệm thiên phú, về mặt nguyên tắc hay lý thuyết, chính là con đường thánh thiện thông thường bất chấp những ngoại lệ phát sinh từ tính khí cá nhân, từ những công việc bận rộn hay từ những môi trường kém thuận lợi hơn,...5
Các tác giả khác, trong khi đặc biệt suy xét đến các sự kiện hay đến những cá nhân có đời sống ân sủng, tuyên bố rằng có những linh hồn nội tâm thực sự quảng đại nhưng không đạt tới được đỉnh cao này, mặc dù tự nó, đỉnh cao này là sự phát triển trọn vẹn và thông thường của ơn thường sủng, của các nhân đức phú bẩm và của các ân huệ.
Thần học tu đức, giống như mọi khoa học khác, nên suy xét đời sống nội tâm nơi chính nó chứ không phải nơi một cá nhân cụ thể trong những hoàn cảnh bất lợi nhất định. Bởi lẽ cho dù có những cá thể sồi còi cọc, nhưng sự kiện đó không có nghĩa rằng sồi không phải là một loài cây cao lớn. Thần học tu đức, trong khi lưu ý đến những trường hợp ngoại lệ có thể phát sinh do thiếu đi một điều kiện nhất định, nên đặc biệt thiết lập những quy luật cao hơn cho sự phát triển trọn vẹn của đời sống ân sủng nơi chính nó, cho sự chuẩn bị gần kề để đón nhận thị kiến vinh phúc cách tức thời nơi một linh hồn đã hoàn toàn thanh luyện.
Luyện ngục là một hình phạt giả thiết một lỗi lầm mà chúng ta có thể tránh được và có thể đền bù trước khi chết bằng cách chấp nhận những thử thách của cuộc sống hiện tại với một ý chí ngày càng tốt hơn. Ở đây, chúng ta đang tìm cách xác định con đường thông thường của sự thánh thiện hay hoàn thiện để một người có thể vào thiên đàng ngay sau khi chết. Từ góc độ này, chúng ta phải suy xét về đời sống ân sủng, trong chừng mực nó là hạt giống của đời sống vĩnh cửu, và do đó, là chính ý niệm đúng đắn về đời sống vĩnh cửu, mục đích khóa học của chúng ta, thứ phải soi sáng toàn bộ con đường mà chúng ta phải đi. Một sự chuyển động không được xác định bởi khởi điểm hay những chướng ngại mà nó gặp phải, nhưng bởi đích đến mà nó hướng tới. Vì thế, đời sống ân sủng phải được xác định bởi đời sống vĩnh cửu mà chính nó là hạt giống; và sau đó, là sự chuẩn bị gần kề và hoàn hảo để đón nhận thị kiến vinh phúc ngay lập tức trong con đường thông thường của sự thánh thiện.
Trong những trang tiếp theo, chúng tôi sẽ nhấn mạnh nhiều hơn vào các nguyên lý được chấp nhận rộng rãi trong thần học, bằng cách chỉ ra giá trị và sự mở rộng của chúng, hơn là vào sự đa dạng của các quan điểm về một vấn đề cá biệt nào đó được đề xuất bởi các tác giả thường không mấy quan trọng. Có một số tác phẩm gần đây, như chúng tôi đề cập bên trên, đã bàn luận chi tiết đến tất cả những quan điểm như vậy. Chúng tôi đề xuất một mục tiêu khác, và đó là lý do tại sao chúng tôi chủ yếu trích dẫn các tác giả có tầm quan trọng hơn cả. Đối với chúng ta, việc liên tục tìm về những nền tảng cho học thuyết của các tác giả ấy dường như là điều cần thiết nhất trong việc định hình tâm trí, công việc vốn quan trọng hơn vấn đề học thức uyên bác. Những điều thứ yếu không nên là thứ khiến chúng ta quên đi những điều chính yếu, và sự phức tạp của một vài vấn đề cũng không nên là thứ khiến chúng ta lạc hướng khỏi sự vững chắc của những nguyên lý cao cả mang tính định hướng giúp soi sáng mọi con đường thiêng liêng. Đặc biệt, chúng ta cũng không nên bằng lòng với việc lặp lại những nguyên lý này giống như bao lời sáo rỗng, nhưng phải xem xét kỹ lưỡng, khám phá chiều sâu và liên tục trở lại với chúng để có thể hiểu rõ hơn.
Không có gì phải nghi ngờ, một khóa học như vậy chắc chắn đặt người ta vào thế dễ bị lặp lại; nhưng những ai tìm kiếm một khoa học thần học chân chính, thứ vượt qua và vượt trên những quan điểm ngẫu nhiên có thể thịnh hành trong nhiều năm, đều biết rằng nó vượt trên mọi sự thông thái. Họ biết rằng nó không quá bận tâm đến việc suy ra những kết luận mới, nhưng tìm cách nối kết tất cả những kết luận ít nhiều đa dạng với cùng một tập hợp những nguyên lý cao hơn, giống như các mặt khác nhau của một kim tự tháp có chung một đỉnh. Và thực tế là khi liên hệ đến mọi vấn đề, chúng tôi đều nại đến nguyên lý cao nhất của việc tổng hợp, vốn không phải là sự lặp đi lặp lại, nhưng là một cách để tiến gần đến sự chiêm niệm tuần hoàn, điều mà theo Thánh Tôma,6 luôn quay trở lại cùng một chân lý tối cao để nắm bắt tốt hơn tất cả những tiềm năng của nó, và giống như đường bay của một con chim, nó mô tả nhiều lần cùng một vòng tròn xoay quanh cùng một điểm. Tâm điểm này, giống như đỉnh của một kim tự tháp, theo cách riêng của nó, là biểu tượng cho khoảnh khắc duy nhất của sự vĩnh cửu bất động, thứ tương hợp với tất cả những khoảnh khắc liên tiếp trôi qua của thời gian. Từ góc độ này, độc giả của cuốn sách sẽ tha thứ cho chúng tôi vì đã lặp lại quá nhiều lần cùng một tập hợp những đề tài chủ đạo cấu thành nên sự duyên dáng, tính thống nhất và sự hùng vĩ của thần học tu đức.
Chú thích
1 I, ch. 8, 14.
2 J. de Guibert, S.J., Revue d’ascetique et de mystique [Khảo cứu về khổ chế và thần bí], 07/1924, tr. 294. Xem tác phẩm cùng tác giả: Theologia spiritualis ascetica et mystica [Thần học tu đức về khổ chế và thần bí] (Rôma, 1938), tr. 374–89. Ở trang 381 của tác phẩm này, cha de Guibert đã nhường lại cho chúng tôi rất nhiều điều trong lời dạy của ngài: “Mặc dù những linh hồn quảng đại thường có vẻ không thực sự đạt tới sự hoàn thiện nếu Thiên Chúa không ban cho họ một vài cái động chạm hoặc sự tham dự ngắn ngủi vào những ân sủng cấu thành nên sự chiêm niệm thiên phú, theo đúng nghĩa là như vậy, nhưng con đường hay trạng thái chiêm niệm thiên phú không phải là con đường thông thường duy nhất dẫn đến sự hoàn thiện của đức ái; và do đó, các linh hồn có thể vươn tới bất cứ mức độ thánh thiện nào nếu họ đi theo con đường này một cách thường trực.”
Cũng vậy, chúng tôi không nói rằng trạng thái chiêm niệm thiên phú là con đường thánh thiện thông thường duy nhất, nhưng là đỉnh cao của con đường thánh thiện thông thường. Trong tác phẩm này, chúng tôi muốn chỉ ra rằng có một mức độ về sự hoàn thiện và đời sống đền tội mà linh hồn không thể đạt tới như một trạng thái đặc trưng nếu không có sự thanh tẩy thụ động trên các giác quan và tinh thần, theo đúng nghĩa là như vậy.
Trong khẳng định này, chúng tôi có điểm khác với cha de Guibert, và chúng tôi nghĩ rằng mình đang tuân theo học thuyết truyền thống của các tác giả thiêng liêng vĩ đại, cách đặc biệt là Thánh Gioan Thánh Giá, trong đoạn văn mà ngài nói về sự cần thiết của hai cuộc thanh tẩy thụ động để loại bỏ những khuyết điểm của người mới bắt đầu và người thành thạo (x. The Dark Night, I, ch. 8 tt.; II, ch. 2 tt.). Không có gì phải nghi ngờ, những đau khổ bên ngoài chắc chắn cũng rất có tác dụng thanh tẩy, nhưng nếu không có những sự thanh tẩy thụ động, theo đúng nghĩa là như vậy, thì họ không được hỗ trợ bởi tất cả những gì mà sự hoàn thiện đòi hỏi. Thánh Gioan Thánh Giá chỉ ra (sđd.) rằng nếu những cuộc thanh tẩy này chỉ được thực hiện theo từng khoảng thời gian gián đoạn, thì linh hồn sẽ không đạt tới được đỉnh cao mà ngài nói đến.
3 Các số 1564, 1566.
4 Cha Peeters cũng bày tỏ quan điểm tương tự trong lần tái bản thứ hai đã được sửa đổi và bổ sung của chính tác phẩm này (1931), tr 216–21.
5 Chúng tôi tin rằng sự phân biệt này giúp giải thích một số điểm có vẻ mâu thuẫn trong các tác phẩm của Thánh Têrêsa Avila, chính ngài cũng đã chỉ ra và nói rằng đó không phải là mâu thuẫn thực sự.
Trong nhiều đoạn văn, ngài nói về lời mời gọi chung dành cho các linh hồn nội tâm để họ đến với nguồn nước hằng sống của cầu nguyện, trong khi ở những đoạn khác, ngài lại nói về những trường hợp cá biệt. Chính vì thế, trong chương 20 của cuốn The Way of Perfection [Đường Hoàn Thiện], ngài nói: “Chương cuối cùng dường như mâu thuẫn với những gì tôi đã nói, khi, để an ủi những người không phải là những người chiêm niệm, tôi bảo họ rằng Thiên Chúa đã tạo ra nhiều con đường để đến với Ngài, cũng như Ngài đã tạo ra ‘nhiều lâu đài.’” Và ngài khẳng định như một sự thật đối với nguyên lý về lời mời gọi phổ quát mà ngài giải thích lại: “Tôi nhắc lại rằng Đức Vua, vì là Thiên Chúa, biết rõ sự yếu đuối của chúng ta và đã chuẩn bị cho chúng ta. Ngài không nói rằng: ‘Hãy để một số người đến với Ta bằng một phương thế khác.’ Lòng thương xót của Ngài lớn lao đến độ Ngài không ngăn cản bất cứ ai đến uống nước từ nguồn nước hằng sống... Thật vậy, Ngài đã mời gọi chúng ta một cách công khai và lớn tiếng rằng hãy làm như thế (Chúa Giêsu đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: ‘Ai khát, hãy đến với tôi’ – Ga 7,37)... Các chị thấy đó, chúng ta không phải sợ chết khát trên con đường cầu nguyện... Vậy hãy nghe lời tôi khuyên: đừng chần chừ trên con đường này, nhưng hãy đấu tranh một cách can đảm cho đến khi bỏ mạng vì nỗ lực ấy.” Những hạn chế mà Thánh Têrêsa đưa ra không liên quan đến lời mời gọi chung và xa, nhưng liên quan đến lời mời gọi riêng và gần như chúng tôi đã giải thích. X. Christian Perfection and Contemplation, tr. 345–381.
6 X. ST IIa, IIae, q.180, a.6.