Tiết 2. Chấp nhận và loại trừ nhân chứng (Điều 1551-1557)

Điều 1551

Bên nào đã đưa một nhân chứng ra tòa, thì có thể khước từ việc thẩm vấn nhân chứng ấy; nhưng đối phương có thể yêu cầu cứ thẩm vấn nhân chứng ấy.

Điều 1552

§1. Khi được yêu cầu lấy chứng cớ qua các nhân chứng, thì phải cho tòa án biết tên và nơi cư trú của họ.

§2. Trong thời hạn do thẩm phán ấn định, phải trình bày những điểm nào muốn yêu cầu để thẩm vấn những nhân chứng; bằng không, lời yêu cầu sẽ được xem như đã bị hủy bỏ.

Điều 1553

Thẩm phán phải hạn chế đừng đề cho có quá nhiều nhân chứng.

Điều 1554

Trước khi thẩm vấn các nhân chứng, phải thông báo tên của họ cho các bên; nhưng nếu theo sự thẩm định khôn ngoan của mình, thẩm phán thấy điều đó không thể thực hiện được mà không gây khó khăn nghiêm trọng, thì ít nhất phải thông báo tên của các nhân chứng trước khi công bố các lời chứng.

Điều 1555

Miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1550, một bên có thể yêu cầu loại bỏ một nhân chứng, nếu có một lý do chính đáng để loại bỏ, trước khi nhân chứng ấy cung khai.

Điều 1556

Việc triệu tập một nhân chứng phải được thực hiện do sắc lệnh của thẩm phán, sắc lệnh này được thông báo cho nhân chứng cách hợp pháp.

Điều 1557

Một nhân chứng được triệu tập cách hợp pháp thì phải trình diện hoặc phải cho thẩm phán biết lý do vắng mặt của mình.

Tiết 1. Những người có thể làm chứng (Điều 1549-1550)Tiết 3. Thẩm vấn các nhân chứng (Điều 1558-1571)