Chương 1. Tình trạng giáo luật của các thể nhân (Điều 96-112)

Điều 96

Nhờ bí tích Rửa Tội, con người được sáp nhập vào Giáo Hội Chúa Kitô và trở thành một thể nhân trong Giáo Hội, Với những nghĩa vụ và quyền lợi riêng của người Kitô hữu, tùy theo hoàn cảnh của họ, trong mức độ họ hiệp thông với Giáo Hội, Và miễn là họ không bị ngăn trở bởi một hình phạt đã được tuyên bố cách hợp pháp.

Điều 97

§1. Một người đã được mười tám tuổi trọn là thành niên; dưới tuổi đó là vị thành niên.

§2. Người vị thành niên trước khi được bảy tuổi trọn được gọi là nhi đồng và được xem như không làm chủ bản thân, một khi được bảy tuổi trọn, thì được suy đoán là đã biết sử dụng trí khôn.

Điều 98

§1. Người thành niên có toàn quyền sử dụng các quyền của mình.

§2. Người vị thành niên khi sử dụng các quyền của mình phải tùy thuộc uy quyền của cha mẹ hay của người giám hộ, trừ những quyền mà luật Thiên Chúa hay giáo luật đã miễn cho họ khỏi uy quyền của các vị ấy; về việc chỉ định người giám hộ và quyền giám hộ, thì phải giữ những quy định của luật dân sự, trừ khi giáo luật dự liệu cách khác, hoặc nếu Giám mục giáo phận, trong một số trường hợp nhất định và vì một lý do chính đáng, xét thấy cần phải chỉ định một người giám hộ khác.

Điều 99

Người nào thường xuyên không sử dụng đầy đủ trí khôn, thì được coi như là không làm chủ bản thân và được đồng hóa với nhi đồng.

Điều 100

Một người được gọi là người thường trú, khi họ ở tại nơi mà họ có cư sở; được gọi là người tạm trú, khi họ ở tại nơi mà họ có bán cư sở; được gọi là ngoại cư, nếu họ ở ngoài cư sở hoặc bán cư sở mà họ vẫn còn giữ; được gọi là người không có cư sở, nếu họ không có cư sở hay bán cư sở ở bất cứ nơi nào.

Điều 101

§1. Nguyên quán của người con, kể cả của người tân tòng, là nơi mà, khi người con sinh ra, cha mẹ có cư sở hay bán cư sở, nếu không có cư sở, và nếu cha mẹ không có chung một cư sở hay bán cư sở, thì nguyên quán của người con là cư sở hay bán cư sở của người mẹ.

§2. Nếu là con của người không có cư sở, thì nguyên quán là chính nơi người con được sinh ra; nếu là con bị bỏ rơi, thì nguyên quán là nơi người con đã được tìm thấy.

Điều 102

§1. Cư sở được thủ đắc do việc cư ngụ trong địa hạt của một giáo xứ hay ít ra của một giáo phận, với ý định sẽ ở đó vĩnh viễn, nếu không có gì thay đổi, hoặc việc cư ngụ đã được kéo dài năm năm trọn.

§2. Bán cư sở được thủ đắc do việc cư ngụ trong địa hạt của một giáo xứ hay ít ra của một giáo phận, với ý định sẽ ở đó ít là ba tháng nếu không có gì thay đổi, hoặc việc cư ngụ đã thực sự được kéo dài suốt ba tháng.

§3. Cư sở hay bán cư sở trong địa hạt của một giáo xứ được gọi là cư sở hay bán cư sở thuộc giáo xứ, trong địa hạt của một giáo phận, dầu không ở trong giáo xứ, thì được gọi là cư sở hay bán cư sở thuộc giáo phận.

Điều 103

Những thành viên các hội dòng và của các tu đoàn tông đồ thủ đắc cư sở tại nơi tọa lạc của nhà mà họ trực thuộc; họ thủ đắc bán cư sở tại nhà họ đang ở, chiếu theo quy tắc của điều 102 §1.

Điều 104

Vợ chồng có chung một cư sở hoặc bán cư sở; vì lý do ly thân hợp pháp hay vì một lý do chính đáng khác, mỗi người có thế có cư sở hoặc bán cư sở riêng.

Điều 105

§1. Người vị thành niên nhất thiết phải giữ cư sở hoặc bán cư sở của người họ thuộc quyền. Quá tuổi nhi đồng, người vị thành niên cũng có thể thủ đắc bán cư sở riêng; và nếu đã được thoát quyền cách hợp pháp chiếu theo luật dân sự, thì người vị thành niên cũng có thể có cư sở riêng.

§2. Người nào được trao cho người khác giám hộ hay quản tài cách hợp pháp vì một lý do nào khác ngoài lý do vị thành niên, thì lấy cư sở hay bán cư sở của người giám hộ hay người quản tài.

Điều 106

Cư sở và bán cư sở bị mất do việc rời khỏi nơi ấy với ý định không trở về lại, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 105.

Điều 107

§1. Do cư sở cũng như do bán cư sở, mỗi người có cha sở và Đấng Bản Quyền của mình.

§2. Cha sở hay Đấng Bản Quyền riêng của người không có cư sở là cha sở hay Đấng Bản Quyền nơi người ấy hiện đang cư ngụ.

§3. Người nào chỉ có một cư sở hay một bán cư sở thuộc giáo phận thì cha sở riêng là cha sở nơi họ hiện đang cư ngụ.

Điều 108

§1. Huyết tộc được tính theo hàng và bậc.

§2. Trong hàng dọc, có bao nhiêu đời thì có bấy nhiêu bậc, nghĩa là có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu bậc, không tính gốc tổ chung.

§3. Trong hàng ngang, có bao nhiêu người tính chung cả hai hàng thì có bấy nhiêu bậc, không tính gốc tổ chung.

Điều 109

§1. Họ kết bạn phát sinh do hôn nhân thành sự, cho dù bất hoàn hợp, và tồn tại giữa người chồng với huyết tộc của người vợ, cũng như giữa người vợ với huyết tộc của người chồng.

§2. Họ kết bạn được tính như thế này: huyết tộc của người chồng có họ kết bạn với người vợ ở cùng hàng và cùng bậc, và ngược lại.

Điều 110

Những đứa con được nhận làm dưỡng tử chiếu theo luật dân sự thì được coi như con ruột của một người hay của những người đã nhận nuôi chúng.

Điều 111

§1. Do việc lãnh nhận bí tích Rửa Tội, con cái được ghi danh vào Giáo Hội Latinh, nếu cha mẹ họ thuộc về Giáo Hội đó, cũng vậy, nếu một trong hai không thuộc Giáo Hội Latinh, nhưng cả hai đều đồng ý để con cái được rửa tội trong Giáo Hội Latinh; trong trường hợp bất đồng ý kiến, con cái được ghi danh vào Giáo Hội lễ điển của người cha.

§2. Sau khi đã được mười bốn tuổi trọn, người xin rửa tội có thể tự do chọn được rửa tội trong Giáo Hội Latinh hoặc trong Giáo Hội nghi lễ tự lập khác; trong trường hợp ấy, họ thuộc về Giáo Hội họ đã chọn.

Điều 112

§1. Sau khi nhận bí tích Rửa Tội, những người sau đây được ghi danh vào Giáo Hội nghi lễ tự lập khác:

người đã được Tông Tòa ban phép;

người phối ngẫu, khi kết hôn hay trong đời sống hôn nhân, đã tuyên bố chuyển sang Giáo Hội nghi lễ tự lập của người phối ngẫu kia; nhưng một khi hôn nhân đã đoạn tiêu, người ấy có thể tự do trở lại Giáo Hội Latinh;

con cái của những người được nói đến ở 1° và 2° chưa đủ mười bốn tuổi trọn, cũng như trong một đôi hôn nhân hỗn hợp, con cái của bên Công Giáo đã chuyển qua Giáo Hội nghi lễ khác cách hợp pháp; nhưng khi qua tuổi trên rồi, chúng có thể trở lại Giáo Hội Latinh.

§2. Thói quen lãnh nhận các bí tích theo nghi thức của một Giáo Hội nghi lễ tự lập, mặc dầu đã có từ lâu, không đòi hỏi việc ghi danh vào Giáo Hội ấy.

Đề mục 6. Các thể nhân và pháp nhân (Điều 96-123)Chương 2. Các pháp nhân (Điều 113-123)