CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

I. Con người khao khát Thiên Chúa (27-30)

27355, 170, 1718

Niềm khao khát Thiên Chúa được ghi khắc trong trái tim con người bởi vì con người được tạo dựng bởi Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới gặp được chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm:

“Khía cạnh cao quý nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi hiệp thông với Thiên Chúa. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người đã được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa: thật vậy, con người đã chẳng hiện hữu, nếu, một khi đã được Thiên Chúa vì tình yêu mà tạo dựng, nó không được Thiên Chúa vì tình yêu mà luôn luôn bảo tồn; và con người cũng chẳng sống theo chân lý cách trọn vẹn, nếu nó không tự nguyện nhìn nhận tình yêu ấy và phó mình cho Đấng Tạo Hóa của mình.”1

28843, 2566, 2095-2109

Trong lịch sử của mình mãi đến ngày nay, loài người đã diễn tả việc tìm kiếm Thiên Chúa của mình bằng nhiều cách, qua các tín ngưỡng và các hành vi tôn giáo (cầu kinh, tế lễ, phụng tự, suy niệm, v.v…). Các hình thức diễn tả này, mặc dù có thể kéo theo chúng những nét hàm hồ, vẫn là rất phổ quát đến nỗi con người có thể được gọi là một hữu thể có tôn giáo:

“Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Ngài đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy, là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Ngài, tuy rằng thật sự Ngài không ở xa mỗi người chúng ta. Thật vậy, chính ở nơi Ngài mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,26-28).

292123-2128, 398

Tuy nhiên, “sự liên kết thân mật và sống động này với Thiên Chúa”2 có thể bị con người bỏ quên, sao lãng và thậm chí minh nhiên gạt bỏ. Những thái độ như thế có thể phát xuất do những nguyên nhân rất khác nhau:3 do bất mãn trước sự dữ trên thế giới, do không hiểu biết hoặc thờ ơ về tôn giáo, do lo toan về thế gian và tiền của,4 do gương xấu của các tín hữu, do những trào lưu tư tưởng chống tôn giáo, cuối cùng là do thái độ của con người tội lỗi, vì sợ hãi mà lẩn tránh Thiên Chúa5 và chạy trốn khi nghe tiếng gọi của Ngài.6

302567, 845, 368

“Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỉ!” (Tv 105,3). Dù con người có thể quên lãng hay chối từ Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa vẫn không ngừng kêu gọi mọi người tìm kiếm Ngài để họ được sống và đạt được hạnh phúc. Nhưng việc tìm kiếm này đòi hỏi con người phải có nỗ lực của trí tuệ, sự ngay thẳng của ý chí, “một tấm lòng thành”, và phải có cả chứng từ của những người khác để dạy con người tìm kiếm Thiên Chúa.

“Lạy Chúa, Chúa vĩ đại và rất đáng ca tụng: quyền năng của Chúa cao cả và sự khôn ngoan của Chúa thật khôn lường. Và con người, một phần nhỏ bé trong các thụ tạo của Chúa, con người trong thân phận phải chết, mang nơi mình chứng tích của tội lỗi mình và chứng tích việc Chúa chống lại kẻ kiêu căng: vậy mà con người như vậy, một phần nhỏ bé trong các thụ tạo của Chúa, muốn ca tụng Chúa. Chính Chúa thúc giục để con người vui thích ca tụng Chúa, bởi vì Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con không yên nghỉ cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa.”7

II. Những con đường giúp con người nhận biết Thiên Chúa (31-35)

31

Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được mời gọi nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, con người tìm kiếm Thiên Chúa sẽ khám phá ra một số “con đường” giúp nhận biết Ngài. Những con đường này còn được gọi là “những lý chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, nhưng không theo nghĩa lý chứng của các khoa học tự nhiên, mà theo nghĩa những “lý chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người đạt tới những sự chắc chắn thật sự.

Những “con đường” để đến với Thiên Chúa như thế có khởi điểm là các thụ tạo: thế giới vật chất và con người.

3254, 337

Vũ trụ: Thiên Chúa có thể được nhận biết như là nguồn gốc và cùng đích của vũ trụ, căn cứ vào sự vận hành và chuyển biến của vũ trụ, vào tính cách bất tất, vào trật tự và vẻ đẹp của vũ trụ.

Về người ngoại giáo, thánh Phao-lô khẳng định: “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Ngài, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Ngài” (Rm 1,19-20).8

Còn thánh Augustinô thì nói: “Bạn hãy hỏi vẻ đẹp của trái đất, hãy hỏi vẻ đẹp của biển khơi, hãy hỏi vẻ đẹp của không khí đang dãn nở và lan tỏa, hãy hỏi vẻ đẹp của bầu trời,… hãy hỏi những thực tại ấy. Tất cả sẽ trả lời bạn: Này bạn xem, chúng tôi quả là đẹp. Vẻ đẹp của chúng là lời tuyên xưng của chúng. Ai đã làm nên những vẻ đẹp có thể thay đổi đó, nếu không phải là Đấng Toàn Mỹ không bao giờ thay đổi?”9

332500, 1730, 1776, 1703, 366

Con người: với sự cởi mở đón nhận chân lý và vẻ đẹp, với lương tri, với sự tự do và tiếng nói của lương tâm, với niềm khát vọng sự vô biên và hạnh phúc, con người tự hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhìn vào tất cả những điều kể trên, con người nhận ra những dấu chỉ của linh hồn thiêng liêng của mình. Là “hạt giống của sự vĩnh cửu mà con người mang nơi mình, và không thể giản lược vào vật chất mà thôi”,10 nên linh hồn con người không thể có một nguồn gốc nào khác ngoài một mình Thiên Chúa.

34199

Vũ trụ và con người minh chứng rằng chúng không phải là nguyên lý tiên khởi và cứu cánh tối hậu của chính mình, nhưng thông phần với “Hữu Thể Tự Tại”, vô thủy vô chung. Như vậy, qua những “con đường” khác nhau đó, con người có thể đạt tới việc nhận biết sự hiện hữu của một thực tại là nguyên lý tiên khởi và là cứu cánh tối hậu của mọi sự, “mà mọi người gọi là Thiên Chúa.”11

3550, 159

Các tài năng của con người làm cho con người có thể nhận biết sự hiện hữu của một Thiên Chúa có ngôi vị. Nhưng để con người có thể tiến đến chỗ thân mật với Ngài, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình Ngài cho con người và ban cho họ ân sủng để nhờ đó họ có thể đón nhận mặc khải này trong đức tin. Tuy nhiên, các “lý chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa” có thể chuẩn bị cho đức tin và giúp người ta thấy rằng đức tin không đối nghịch với lý trí của con người.

III. Việc nhận biết Thiên Chúa theo quan niệm của Hội Thánh (36-38)

36355

“Mẹ Hội Thánh khẳng định và dạy rằng: Từ những loài thụ tạo, nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí con người, con người có thể nhận biết cách chắc chắn về Thiên Chúa như là nguyên lý và cùng đích của mọi loài.”12 Không có khả năng này, con người không thể đón nhận mặc khải của Thiên Chúa. Con người có được khả năng đó là vì đã được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27).

371960

Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử mà con người đã trải qua, con người gặp nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa nếu chỉ dựa vào ánh sáng của lý trí.

“Nói một cách đơn giản, mặc dầu lý trí con người, nhờ sức lực và ánh sáng tự nhiên của mình, thật sự có thể đạt tới sự nhận biết đích thực và chắc chắn về một Thiên Chúa có ngôi vị, Đấng bảo vệ và cai quản vũ trụ bằng sự quan phòng của Ngài, cũng như nhận biết một luật tự nhiên được Đấng Tạo hóa đặt trong tâm hồn chúng ta, nhưng có không ít những chướng ngại vật ngăn cản lý trí sử dụng khả năng bẩm sinh đó của nó một cách hữu hiệu. Vì những chân lý liên quan đến Thiên Chúa, liên quan đến mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, là những điều hoàn toàn vượt quá lãnh vực những sự vật hữu hình, và khi những chân lý đó được diễn ra bằng hành động và tác động đến đời sống thì chúng đòi con người phải hiến thân và từ bỏ mình. Để đạt được những chân lý như vậy, trí tuệ con người phải làm việc một cách khó khăn, một đàng vì sự thúc đẩy của các giác quan và trí tưởng tượng, đàng khác vì những dục vọng do nguyên tội gây nên. Cho nên trong những vấn đề đó, con người dễ cho là dối trá hoặc ít nhất là mơ hồ, những điều họ không muốn đó là những sự thật.”13

382036

Vì lý do đó, con người cần được mặc khải của Thiên Chúa soi dẫn, không những trong những gì vượt quá trí khôn, mà cả trong “những chân lý tôn giáo và luân lý tự chúng vốn không vượt quá khả năng lý trí, để trong tình trạng hiện thời của nhân loại, mọi người có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn và không lẫn lộn sai lầm.”14

IV. Phải nói về Thiên Chúa thế nào? (39-43)

39851

Khi bênh vực khả năng của lý trí con người trong việc nhận biết Thiên Chúa, Hội Thánh tin tưởng rằng mình có thể nói về Thiên Chúa cho mọi người và với mọi người. Niềm xác tín này là khởi điểm cho việc đối thoại của Hội Thánh với các tôn giáo khác, với triết học và khoa học, và cả với những người vô tín ngưỡng và những người vô thần.

40

Vì sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa có giới hạn, nên ngôn ngữ chúng ta dùng để nói về Thiên Chúa cũng bị giới hạn. Chúng ta chỉ có thể nói về Thiên Chúa dựa vào những gì chúng ta biết về các thụ tạo và theo cách hiểu biết và suy nghĩ hạn hẹp của loài người chúng ta.

41213, 299

Mọi thụ tạo đều có một nét nào đó giống Thiên Chúa, đặc biệt là con người được tạo dựng theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Nhiều điều hoàn hảo của các thụ tạo (tính chân, thiện, mỹ của chúng) phản chiếu sự hoàn hảo vô biên của Thiên Chúa. Do đó, chúng ta có thể nói về Thiên Chúa từ những sự hoàn hảo nơi các thụ tạo của Ngài, “vì các thụ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,5).

42212, 300, 370

Thiên Chúa siêu việt trên mọi thụ tạo. Vì vậy, chúng ta phải không ngừng thanh luyện ngôn ngữ của chúng ta khỏi những gì là hạn hẹp, lệ thuộc vào hình ảnh, và bất toàn, để Thiên Chúa, Đấng loài người “không thể diễn tả được, không thể hiểu thấu được, không thể nhìn thấy được, không thể suy tới được”,15 không bị lẫn lộn với những kiểu trình bày phàm nhân của chúng ta. Ngôn ngữ phàm nhân của chúng ta không bao giờ có thể diễn tả đầy đủ mầu nhiệm vô tận của Thiên Chúa.

43206

Khi nói như vậy về Thiên Chúa, ngôn ngữ của chúng ta diễn đạt theo cách phàm nhân, nhưng thật sự đạt tới chính Thiên Chúa, dù không thể diễn tả được Ngài trong tính đơn thuần vô biên của Ngài. Chúng ta phải nhớ rằng “giữa Đấng Tạo hóa và thụ tạo, không thể ghi nhận sự giống nhau, mà không bao hàm rằng sự khác nhau còn lớn hơn nhiều”;16 hơn nữa, “chúng ta không thể nắm bắt được Thiên Chúa là gì, nhưng chỉ có thể biết được Ngài không phải là gì, và các hữu thể khác liên hệ với Ngài như thế nào.”17

Tóm lược (44-49)

44

Tự bản tính và do ơn gọi, con người là một hữu thể có tôn giáo. Vì phát sinh từ Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa, con người chỉ sống cuộc sống nhân linh một cách đầy đủ khi tự nguyện sống liên kết với Thiên Chúa.

45

Con người được tạo dựng để sống hiệp thông với Thiên Chúa. Nơi Ngài, họ tìm được hạnh phúc. “Khi con gắn bó hết mình với Chúa, con sẽ không bao giờ còn phải đau đớn và vất vả nữa, và được tràn đầy Chúa, đời con sẽ trở nên sống động.”18

46

Khi lắng nghe sứ điệp của các thụ tạo và tiếng nói của lương tâm, con người có thể đạt đến việc nhận biết chắc chắn về sự hiện hữu của Thiên Chúa, là nguyên nhân và cùng đích của mọi sự.

47

Hội Thánh dạy rằng, con người có thể nhận biết cách chắc chắn về Thiên Chúa duy nhất và chân thật, là Đấng Tạo Hóa và Chúa của chúng ta, qua các công trình của Ngài, nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí con người.19

48

Chúng ta thật sự có thể nói về Thiên Chúa dựa trên những nét hoàn hảo đa dạng của các thụ tạo, vì đó là những điểm giống với sự hoàn hảo vô biên của Thiên Chúa, mặc dầu ngôn ngữ hạn hẹp của chúng ta không diễn tả được hết mầu nhiệm của Ngài.

49

“Các thụ tạo tan biến nếu không có Đấng Tạo Hóa.”20 Vì thế, tín hữu biết rằng mình được tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách phải mang ánh sáng của Thiên Chúa hằng sống đến cho những ai không biết Ngài hoặc chối từ Ngài.


Chú thích

1 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 19: AAS 58 (1966) 1038-1039.

2 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 19: AAS 58 (1966) 1039.

3 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 19-21: AAS 58 (1966) 1038-1042.

4 X. Mt 13,22.

5 X. St 3,8-10.

6 X. Ga 1,3.

7 Thánh Augustinô, Confessiones, 1, 1, 1: CCL 27,1 (PL 32,659-661).

8 X. Cv 14,15-17; 17,27-28; Kn 13,1-9.

9 Thánh Augustinô, Sermo 241, 2: PL 38,1134.

10 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 18: AAS 58 (1966) 1038; x. Ibid., 14: AAS 58 (1966) 1036.

11 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I, q. 2, a. 3, c: Ed. Leon. 4, 31.

12 CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 2: DS 3004; X. Ibid., De Revelatione, canon 2: DS 3026; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 6: AAS 58 (1966) 819.

13 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Humani generis: DS 3875.

14 Ibid.: DS 3876. X. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 2: DS 3005; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 6: AAS 58 (1966) 819-820; Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, I, q. 1, a. 1, c: Ed. Leon. 4, 6.

15 Phụng vụ Byzantin. Anaphora sancti Ioannis Chrysostomi: Liturgies Eastern and Western, ed. F.E. Brightman (Oxford 1896) p. 384 (PG 63,915).

16 CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap. 2. De errore abbatis Ioachim: DS 806.

17 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa contra gentiles, 1, 30: Ed. Leon. 13, 92.

18 Thánh Augustinô, Confessiones, 10, 28, 39: CCL 27,175 (PL 32,795).

19 X. CĐ Va-ti-ca-nô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, De revelatione, canon 2: DS 3026.

20 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 36: AAS 58 (1966) 1054.

Scroll to Top