Mục 1: Những cách diễn đạt việc cầu nguyện (2700-2724)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

I. Khẩu nguyện (2700-2704)

27001176

Thiên Chúa nói với con người bằng Lời của Ngài. Chính nhờ các lời, trong tâm trí hay đọc ra miệng, mà việc cầu nguyện của chúng ta hình thành. Nhưng điều tối quan trọng là sự hiện diện của trái tim hướng về Đấng chúng ta ngỏ lời khi cầu nguyện. “Lời cầu nguyện của chúng ta có được đoái nhận hay không, không hệ tại ở nhiều lời, nhưng ở sự tỉnh thức của tâm trí.”2

27012603, 612

Khẩu nguyện là yếu tố rất cần thiết cho đời sống Ki-tô hữu. Các môn đệ bị lôi cuốn bởi việc cầu nguyện thầm lặng của Thầy mình, đã được Đức Ki-tô dạy cho một kinh khẩu nguyện: đó là Kinh Lạy Cha. Chúa Giê-su không những cầu nguyện theo phụng vụ của Hội đường, nhưng các sách Tin Mừng còn cho ta thấy Người lớn tiếng bày tỏ lời cầu nguyện riêng của Người nữa, từ việc hân hoan chúc tụng Chúa Cha3 cho đến lúc ngặt nghèo ở Ghết-sê-ma-ni.4

27021146

Nhu cầu liên kết các giác quan với việc cầu nguyện nội tâm đáp ứng đòi hỏi của bản tính loài người chúng ta. Chúng ta là thân xác và tinh thần, và chúng ta nghiệm thấy nhu cầu phải diễn đạt những tâm tình của chúng ta ra bên ngoài. Cần cầu nguyện với trót cả con người chúng ta, để mang lại sức lực tối đa cho lời khẩn cầu của chúng ta.

27032097

Nhu cầu này cũng đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa. Thiên Chúa tìm kiếm những kẻ thờ phượng Ngài trong Thần Khí và Sự Thật, và do đó tìm kiếm lời cầu nguyện dâng lên từ cõi sâu thẳm của linh hồn. Ngài cũng muốn cách diễn đạt bên ngoài kết hợp thân xác với lời cầu nguyện nội tâm, bởi vì việc cầu nguyện như thế sẽ dâng lên Thiên Chúa sự tôn kính trọn vẹn, là điều Ngài có quyền đòi hỏi.

2704

Vì khẩu nguyện phát biểu ra bên ngoài và hợp với bản tính nhân loại, nên rất thích hợp với việc cầu nguyện của đám đông. Ngay cả lời cầu nguyện thầm kín nhất cũng không thể không cần đến khẩu nguyện. Việc cầu nguyện trở thành nội tâm tùy mức độ chúng ta ý thức về Đấng mà chúng ta thưa chuyện.5 Khi đó, khẩu nguyện của Hội Thánh trở thành hình thức đầu tiên của việc cầu nguyện chiêm niệm.

II. Suy niệm (2705-2708)

2705158, 127

Suy niệm trước tiên là một sự tìm kiếm. Tâm trí tìm hiểu lý do và cách diễn đạt đời sống Ki-tô hữu như thế nào, để gắn bó và đáp lại điều Chúa đòi hỏi. Điều khó trong suy niệm là phải cầm trí. Thông thường, người ta dùng một cuốn sách nào đó để hỗ trợ; và các Ki-tô hữu không thiếu những sách như vậy: Sách Thánh, đặc biệt là các sách Tin Mừng, các ảnh tượng thánh, các bản văn phụng vụ theo ngày hoặc theo mùa, tác phẩm của các Linh phụ, các sách linh đạo, cuốn sách vĩ đại là công trình tạo dựng và cuốn sách vĩ đại là lịch sử, trang sách về “Ngày hôm nay” của Thiên Chúa.

2706

Việc suy niệm điều đã đọc đưa đến chỗ áp dụng cho riêng mình qua việc đối chiếu với đời mình. Đến đây một cuốn sách khác lại được mở ra: đó là cuốn sách cuộc đời mình. Từ tư tưởng bước sang thực tại. Tùy theo mức độ khiêm tốn và đức tin, ta có thể khám phá ra những giao động trong trái tim và có thể phân định chúng. Đó là thực hành chân lý hầu đạt tới ánh sáng: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”

27072690, 2664

Có bao nhiêu bậc thầy tu đức thì có bấy nhiêu phương pháp suy niệm. Ki-tô hữu phải suy niệm đều đặn, để khỏi trở nên giống như ba loại đất đầu tiên trong dụ ngôn người gieo giống.6 Nhưng phương pháp chỉ là người hướng dẫn mà thôi: điều quan trọng là chúng ta phải tiến bước, cùng với Chúa Thánh Thần, trên con đường duy nhất của cầu nguyện là Chúa Ki-tô Giê-su.

2708516, 2678

Việc suy niệm vận dụng tư tưởng, trí tưởng tượng, cảm xúc và ước muốn. Sự huy động này là cần thiết để đào sâu các xác tín đức tin, để khơi dậy sự hối cải tâm hồn và củng cố ý chí muốn bước theo Đức Ki-tô. Việc cầu nguyện của Ki-tô Giáo ưu tiên chăm chú vào việc suy niệm “các mầu nhiệm của Đức Ki-tô”, như trong lectio divina (đọc và suy gẫm lời Chúa) và kinh Mân Côi. Hình thức suy nghĩ và cầu nguyện này rất có giá trị, nhưng việc cầu nguyện Ki-tô Giáo còn phải tiến xa hơn nữa: nhằm hiểu biết tình yêu của Chúa Giê-su, nhằm kết hợp với Người.

III. Chiêm niệm (2709-2719)

27092562-2564

Cầu nguyện chiêm niệm là gì? Thánh nữ Têrêsa trả lời: “Theo tôi, tâm nguyện không gì khác hơn là cuộc trao đổi thân tình giữa bạn hữu, trong đó chúng ta năng dành thời gian để một mình ở bên Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta biết là Ngài yêu thương chúng ta.”7 Việc cầu nguyện chiêm niệm tìm kiếm “Đấng lòng ta yêu mến” (Dc 1,7).8 Chúng ta tìm kiếm Chúa Giê-su, và Chúa Cha hiện diện trong Người, bởi vì khao khát Người luôn là khởi đầu cho sự yêu mến Người. Và chúng ta tìm kiếm Người trong đức tin tinh tuyền, một đức tin khiến chúng ta được sinh ra bởi Người và được sống trong Người. Chúng ta cũng có thể suy niệm khi cầu nguyện chiêm niệm, nhưng cái nhìn luôn hướng về Chúa.

27102726

Việc chọn lúc nào và bao lâu để cầu nguyện chiêm niệm tùy thuộc một ý chí mạnh mẽ, bộc lộ những điều kín nhiệm trong lòng. Không phải chỉ chiêm niệm khi nào có thời giờ, nhưng chúng ta phải dành thời giờ để ở với Chúa, với quyết tâm không rút lại thời gian, dù việc gặp gỡ có cực khổ và khô khan. Không thể suy niệm bất cứ lúc nào, nhưng luôn luôn có thể cầu nguyện chiêm niệm bởi vì nó không lệ thuộc vào điều kiện sức khoẻ, công tác hay cảm xúc. Trái tim là nơi tìm kiếm và gặp gỡ, trong khó nghèo và tin tưởng.

27111348, 2100

Khởi sự cầu nguyện chiêm niệm cũng tương tự như khởi đầu Thánh lễ: dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta phải hồi tâm và cả hữu thể của chúng ta, sống trong nhà của Chúa, là chính chúng ta, dục lòng tin để tiến vào sự hiện diện của Đấng đang chờ đón chúng ta, chúng ta phải bỏ rơi mặt nạ và hướng tâm hồn về Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, để phó dâng bản thân chúng ta cho Ngài như lễ phẩm cần được thanh luyện và biến đổi.

27122822

Việc cầu nguyện chiêm niệm là kinh nguyện của con cái Thiên Chúa, của tội nhân đã được tha thứ, sẵn sàng đón nhận tình yêu đã yêu thương họ, và muốn đáp lại tình yêu đó bằng yêu mến nhiều hơn.9 Nhưng người đó biết rõ tình yêu báo đáp của họ là tình yêu Chúa Thánh Thần đã tuôn đổ vào lòng họ, bởi vì tất cả mọi ân sủng đều đến từ Thiên Chúa. Cầu nguyện chiêm niệm là phó thác cách khiêm tốn và khó nghèo cho thánh ý yêu thương của Chúa Cha trong sự hợp nhất ngày càng sâu xa hơn với Con yêu dấu của Ngài.

27132559

Như thế, việc cầu nguyện chiêm niệm là hình thức đơn sơ nhất của mầu nhiệm cầu nguyện. Việc cầu nguyện chiêm niệm là một hồng ân, một ân sủng, chỉ có thể đón nhận trong sự khiêm tốn và khó nghèo. Cầu nguyện chiêm niệm là một tương quan của Giao ước được Thiên Chúa thiết lập nơi đáy lòng chúng ta.10 Cầu nguyện chiêm niệm là hiệp thông: Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, trong sự hiệp thông này, làm cho con người, là hình ảnh Thiên Chúa, trở nên “giống như Thiên Chúa.”

2714

Cầu nguyện chiêm niệm cũng là nhịp mạnh cách đặc biệt của việc cầu nguyện. Trong cầu nguyện chiêm niệm, Chúa Cha củng cố chúng ta nên mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Ngài trong con người nội tâm, để Đức Ki-tô cư ngụ trong lòng chúng ta nhờ đức tin và để chúng ta được bén rễ sâu và được xây dựng vững chắc trong đức mến.11

2715521

Cầu nguyện chiêm niệm là cái nhìn đầy lòng tin, chiêm ngắm Chúa Giê-su. Người dân quê làng Ars xưa đã cầu nguyện trước Nhà Tạm rồi nói với cha sở thánh của ông: “Tôi nhìn Chúa và Chúa nhìn tôi.”12 Sự chăm chú nhìn Chúa như vậy là sự từ bỏ “cái tôi.” Cái nhìn của Chúa thanh luyện tâm hồn chúng ta. Ánh sáng trong cái nhìn của Chúa Giê-su chiếu sáng con mắt tâm hồn chúng ta; ánh sáng ấy dạy chúng ta biết nhìn mọi sự dưới ánh sáng chân lý và lòng thương xót của Người đối với tất cả mọi người. Việc cầu nguyện chiêm niệm cũng hướng cái nhìn vào các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô. Như thế, việc cầu nguyện này dạy “sự hiểu biết nội tâm về Chúa” để yêu mến và bước theo Người nhiều hơn nữa.13

2716494

Cầu nguyện chiêm niệm là lắng nghe Lời Chúa. Đây không phải là một thái độ thụ động, mà là sự tuân phục của đức tin, là sự chấp nhận tuyệt đối của người tôi tớ và là sự gắn bó yêu thương của người con. Sự lắng nghe này tham dự vào tiếng “A-men” của Người Con đã hạ mình làm Tôi tớ và tiếng “Fiat” của người nữ tì khiêm tốn của Chúa.

2717533, 498

Cầu nguyện chiêm niệm là thinh lặng, “biểu tượng của thế giới đang tới”,14 hay “lời thầm lặng của tình yêu.”15 Các lời nói trong việc cầu nguyện chiêm niệm không phải là những diễn từ, nhưng là những cọng rơm nuôi ngọn lửa tình yêu. Trong sự thinh lặng này, là điều con người “bên ngoài” không thể chịu đựng nổi, Chúa Cha nói cho chúng ta biết Ngôi Lời của Ngài nhập thể, chịu đau khổ, chịu chết và sống lại; Thần Khí nghĩa tử giúp cho chúng ta tham dự vào lời cầu nguyện của Chúa Giê-su.

2718

Cầu nguyện chiêm niệm là sự kết hợp với lời cầu nguyện của Đức Ki-tô vì cho chúng ta tham dự vào mầu nhiệm của Người. Mầu nhiệm Đức Ki-tô được Hội Thánh cử hành trong Thánh Lễ và được Chúa Thánh Thần làm cho sống động trong chiêm niệm, để mầu nhiệm đó được bày tỏ qua các hành vi yêu mến.

2719165, 2730

Cầu nguyện chiêm niệm là sự hiệp thông tình yêu mang lại sự sống cho nhiều người, nếu chúng ta chấp nhận bước đi trong đêm tối đức tin. Đêm Vượt Qua của cuộc Phục sinh phải xuyên qua đêm hấp hối và đêm huyệt mộ. Đó là ba thời trong Giờ của Chúa Giê-su mà Thần Khí của Người (chứ không phải “xác thịt yếu đuối”) đã để cho Người phải trải qua; trong chiêm niệm, chúng ta đưa ba thời trong Giờ của Người vào đời sống. Chúng ta phải chấp nhận “canh thức một giờ với Người.”16

Tóm lược (2720-2724)

2720

Hội Thánh mời gọi các tín hữu cầu nguyện đều đặn: qua các kinh nguyện hằng ngày, các Giờ Kinh phụng vụ, Thánh lễ Chúa nhật và các lễ trọng của năm phụng vụ.

2721

Truyền thống Ki-tô Giáo có ba cách diễn đạt quan trọng của đời sống cầu nguyện: khẩu nguyện, suy niệm và cầu nguyện chiêm niệm. Đặc điểm chung của cả ba hình thức này là tập trung tâm hồn.

2722

Khẩu nguyện, dựa trên sự kết hợp của thân thể với tinh thần trong bản tính con người, nối kết thân thể với việc cầu nguyện nội tâm của tâm hồn, theo gương Đức Ki-tô, Đấng cầu nguyện với Cha của Người và dạy các môn đệ kinh “Lạy Cha.”

2723

Suy niệm là tìm kiếm trong tinh thần cầu nguyện, vận dụng tư tưởng, trí tưởng tượng, cảm xúc và ước muốn. Mục tiêu của việc suy niệm là để cho điều đã suy tư trong đức tin trở nên của riêng mình, qua việc đối chiếu với thực trạng cuộc đời của mình.

2724

Cầu nguyện chiêm niệm là hình thức đơn sơ của mầu nhiệm cầu nguyện. Đó là cái nhìn của đức tin chiêm ngắm Chúa Giê-su, lắng nghe Lời Chúa, mến yêu thầm lặng. Cầu nguyện chiêm niệm là sự kết hợp với lời cầu nguyện của Đức Ki-tô, vì cho chúng ta tham dự vào mầu nhiệm của Người.


Chú thích

2 Thánh Gio-an Kim Khẩu, De An-na, sermo 2,2: PG 54,646.

3 X. Mt 11,25-26.

4 X. Mc 14,36.

5 X. Thánh Tê-rê-sa Giê-su, Camino de perfección, 26: Biblioteca Mística Carmelitana, v. 3 (Burgos 1916) 122.

6 X. Mc 4,4-7.15-19.

7 X. Thánh Tê-rê-sa Giê-su, Libro de la vida, 8: Biblioteca Mística Carmelitana, v. 1 (Burgos 1915) 57.

8 X. Dc 3,1-4.

9 X. Lc 7,36-50; 19,1-10.

10 X. Gr 31,33.

11 X. Ep 3,16-17.

12 X. F. Trochu, Le Curé d’Ars Saint Jean-Marie Viannê (Lyon-Paris 1927) 223-224.

13 X. Thánh I-nha-xi-ô Lôyôla, Exercitia spiritualia, 104: MHSI 100,224.

14 Thánh I-xa-ác Ni-ni-vê, Tractatus mystici, 66: ed. A.J. Wensinck (Amsterdam 1923) 315; ed. P. Bedjan (Parisiis-Lipsiae 1909) 470.

15 Thánh Gio-an Thánh Giá, Carta, 6: Biblioteca Mística Carmelitana, v. 13 (Burgos 1931) 262.

16 X. Mt 26,40-41.

Scroll to Top