Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

988

Tín biểu của Ki-tô Giáo – là Bản tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và vào hành động tạo dựng, cứu độ và thánh hóa của Ngài – được kết thúc với lời tuyên xưng về sự sống lại của những người chết, vào lúc cùng tận thời gian, và về sự sống vĩnh cửu.

989655, 648

Chúng ta tin một cách chắc chắn và hy vọng một cách chính xác rằng: cũng như Đức Ki-tô đã thật sự sống lại từ cõi chết và sống muôn đời, thì cũng vậy, những người công chính sau cái chết của mình sẽ sống muôn đời với Đức Ki-tô phục sinh, Đấng sẽ làm cho họ sống lại vào ngày sau hết.558 Sự sống lại của chúng ta, cũng như sự sống lại của Người, sẽ là công trình của Ba Ngôi Chí Thánh:

“Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).559

990364

Từ “thân xác” được dùng ở đây để chỉ con người trong thân phận yếu đuối và phải chết của nó.560 “Xác sống lại” có nghĩa là sau khi chết, không những linh hồn bất tử được có sự sống, mà cả “thân xác phải chết” (Rm 8,11) của chúng ta cũng sẽ được đảm nhận lại sự sống.

991638

Tin sự sống lại của những người chết là một yếu tố căn bản của đức tin Ki-tô Giáo ngay từ hồi đầu. “Niềm tin của các Ki-tô hữu, sự sống lại của những người chết. Chúng tôi tin điều đó”:561

“Sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không sống lại! Mà nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,12-14.20).

I. Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô và của chúng ta (992-1004)
Mặc khải tiệm tiến về sự Phục Sinh (992-996)

992297

Việc kẻ chết sống lại đã được Thiên Chúa mặc khải dần dần cho dân Ngài. Niềm hy vọng vào sự sống lại về thân xác của những người chết đã phổ biến như một hệ luận nội tại của đức tin vào Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng toàn bộ con người, cả hồn cả xác. Đấng tạo dựng trời đất cũng là Đấng trung tín giữ Giao Ước của Ngài với tổ phụ Áp-ra-ham và dòng dõi ông. Chính trong hai viễn tượng [tạo dựng và giao ước] này, niềm tin vào sự phục sinh bắt đầu được biểu lộ. Trong những cơn thử thách của mình, các vị Tử Đạo nhà Ma-ca-bê đã tuyên xưng:

“Bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Ngài sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2 Mcb 7,9). “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Ngài cho sống lại” (2 Mcb 7,14).562

993575, 205

Những người Pha-ri-sêu563 và nhiều người đương thời với Chúa564 đã mong đợi sự phục sinh. Chúa Giê-su đã giảng dạy điều đó một cách xác quyết. Với những người Sađucêô phủ nhận sự phục sinh, Người trả lời: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao?” (Mc 12,24). Đức tin về sự phục sinh dựa trên đức tin vào Thiên Chúa, Đấng “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống” (Mc 12,27).

994646

Hơn nữa: Chúa Giê-su kết hợp đức tin về sự phục sinh với Ngôi Vị riêng của Người: “Chính Thầy là sự Sống lại và là sự Sống” (Ga 11,25). Chính Chúa Giê-su sẽ làm cho sống lại trong ngày sau hết những ai đã tin vào Người565 và những ai đã ăn Thịt và uống Máu Người.566 Ngay bây giờ, Người đã đưa ra một dấu chỉ và một bảo chứng khi trả lại sự sống cho một số người đã chết,567 như vậy Người loan báo sự phục sinh riêng của Người tuy sự phục sinh của Người thuộc một trật tự khác. Người nói về biến cố độc nhất này như dấu chỉ Jôna,568 như dấu chỉ Đền Thờ:569 Người loan báo sự phục sinh của Người ngày thứ ba sau khi Người bị giết.570

995860, 655

Làm chứng nhân cho Đức Ki-tô là “làm chứng nhân về sự phục sinh của Người” (Cv 1,22),571 là đã ăn, đã uống “với Người sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại” (Cv 10,41). Niềm hy vọng Ki-tô Giáo về sự phục sinh được ghi dấu cách tuyệt đối bằng những cuộc gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh. Chúng ta sẽ phục sinh như Người, với Người và nhờ Người.

996643

Ngay từ đầu, đức tin Ki-tô Giáo về sự phục sinh đã gặp những phản ứng không hiểu và chống đối.572 “Trong đức tin Ki-tô Giáo, không có việc nào bị chống đối cách mạnh mẽ, dai dẳng, quyết liệt và hăng hái cho bằng vấn đề thân xác sống lại.”573 Thông thường, người ta chấp nhận là sự sống của nhân vị, sau khi chết, được tiếp tục một cách thiêng liêng. Nhưng làm sao tin được rằng thân xác hiển nhiên là phải chết này lại có thể phục sinh vào đời sống vĩnh cửu?

Người chết sẽ phục sinh thế nào? (997-1001)

997366

“Phục sinh” là gì? Khi chết, linh hồn và thân xác bị tách biệt, thân xác con người bị hư hoại trong khi linh hồn của nó đến gặp Thiên Chúa, mà vẫn mong đợi được kết hợp lại với thân xác được tôn vinh của mình. Thiên Chúa, bằng sự toàn năng của Ngài, sẽ vĩnh viễn trả lại sự sống bất hoại cho thân xác chúng ta, kết hợp thân xác đó với linh hồn chúng ta, bằng sức mạnh của cuộc phục sinh của Chúa Giê-su.

9981038

Ai sẽ phục sinh? Tất cả mọi người đã chết đều sẽ phục sinh: “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống, ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29).574

999640, 645

Phục sinh thế nào? Đức Ki-tô đã phục sinh với thân xác riêng của Người: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24,39); nhưng Người không trở lại với đời sống trần thế. Cũng vậy, trong Người, “tất cả mọi người sẽ sống lại với thân xác riêng của mình, thân xác hiện giờ họ đang mang”,575 nhưng thân xác này “sẽ được biến đổi thành thân xác của sự vinh quang”,576 thành “thân thể có thần khí” (1 Cr 15,44):

“Nhưng có người sẽ nói: Kẻ chết sống lại thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống; cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi… Gieo xuống thì hư nát, mà sống lại thì bất diệt;… những kẻ chết sẽ sống lại mà không còn hư nát… Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (l Cr 15,35-37.42.52- 53).

1000647, 1405

Sự “phục sinh thế nào” đó, vượt quá trí tưởng tượng và sự hiểu biết của chúng ta; điều đó chỉ có thể đạt tới bằng đức tin. Nhưng việc chúng ta tham dự vào bí tích Thánh Thể đã cho chúng ta được nếm trước sự biến hình của thân xác chúng ta nhờ Đức Ki-tô:

“Cũng như bánh là hoa mầu ruộng đất, sau khi nhận được lời khẩn cầu Thiên Chúa, không còn là bánh thường nữa, nhưng là Thánh Thể với hai thực tại trần thế và thiên quốc: cũng vậy, thân xác chúng ta khi đón nhận Thánh Thể thì không còn bị hư hoại, nhưng đã mang niềm hy vọng phục sinh.”577

10011038, 673

Khi nào phục sinh? Một cách vĩnh viễn, “trong ngày sau hết” (Ga 6,39-40.44.54; 11,24); “ngày tận thế.”578 Quả vậy, sự phục sinh của những người chết được gắn liền với cuộc Quang lâm của Đức Ki-tô:

“Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên” (l Tx 4,16).

Phục sinh với Đức Ki-tô (1002-1004)

1002655

Nếu thật sự là, Đức Ki-tô sẽ cho chúng ta phục sinh trong “ngày sau hết”, thì cũng thật sự là, một cách nào đó, chúng ta đã phục sinh với Đức Ki-tô rồi. Thật vậy, nhờ Chúa Thánh Thần, đời sống Ki-tô hữu, ngay nơi trần thế, đã là sự tham dự vào cái Chết và sự Sống lại của Đức Ki-tô:

“Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu Phép Rửa, lại cùng được sống lại với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Người sống lại từ cõi chết… Anh em đã được sống lại cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 2,12; 3,1).

10031227, 2796

Được liên kết với Đức Ki-tô nhờ bí tích Rửa Tội, các tín hữu thật sự đã tham dự vào sự sống thiên quốc của Đức Ki-tô phục sinh,579 nhưng sự sống này còn “tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3). Chính Thiên Chúa đã cho chúng ta được “cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2,6). Được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Đức Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đã thuộc về Thân Thể của Người. Khi chúng ta được phục sinh vào ngày sau hết, “lúc đó”, chúng ta sẽ xuất hiện “với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4).

1004364, 1397

Trong khi mong đợi ngày đó, thân xác và linh hồn của tín hữu đã được tham dự vào phẩm giá được hiện hữu “trong Đức Ki-tô”; vì vậy, phải tôn trọng thân xác của mình, và cả thân xác của người khác, nhất là khi thân xác đó phải chịu đau đớn:

“Thân xác… phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác; Thiên Chúa đã làm cho Đức Ki-tô sống lại; chính Ngài cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?… Anh em đâu còn thuộc về mình nữa… Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6,13-15.19-20).

II. Chết trong Đức Ki-tô Giê-su (1005-1014)

1005650

Để được phục sinh với Đức Ki-tô, chúng ta phải chết với Đức Ki-tô, phải “lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5,8). Khi ra đi,580 nghĩa là chết, linh hồn bị tách biệt khỏi thân xác. Linh hồn sẽ lại kết hợp với thân xác của mình trong ngày kẻ chết sống lại.581

Sự chết (1006-1009)

1006

“Đối diện với sự chết, bí ẩn về thân phận con người lên đến mức cao nhất.”582 Theo một nghĩa nào đó, sự chết phần xác là điều tự nhiên, nhưng đối với đức tin, thật ra, sự chết là “lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta” (Rm 6,23).583 Và đối với những người chết trong ân sủng Đức Ki-tô, sự chết là tham dự vào cái Chết của Chúa, để họ cũng có thể tham dự vào sự Phục sinh của Người.584

1007

Sự chết là kết thúc cuộc đời trần thế. Cuộc đời chúng ta được đo bằng thời gian, trong quãng thời gian đó, chúng ta thay đổi, chúng ta già đi, và cũng như đối với mọi sinh vật trên trái đất, sự chết xuất hiện như một kết thúc bình thường của cuộc đời. Khía cạnh này của sự chết mang lại sự khẩn trương cho cuộc đời chúng ta: Nhắc đến việc phải chết giúp chúng ta nhớ rằng chúng ta chỉ có một thời gian giới hạn để thực hiện cuộc đời chúng ta:

“Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ… bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Ngài đã ban cho mình” (Gv 12,1.7).

1008401, 376

Sự chết là hậu quả của tội lỗi. Là người giải thích xác thực những khẳng định của Thánh Kinh585 và Thánh Truyền, Huấn quyền của Hội Thánh dạy rằng cái chết đã đi vào trần gian vì tội lỗi của con người.586 Mặc dù con người có bản tính là phải chết, nhưng Thiên Chúa đã định cho con người không phải chết. Vì vậy, sự chết đi ngược lại với những kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, và nó đã đi vào trần gian với tính cách là hậu quả của tội lỗi.587 “Sự chết… về phần xác, mà lẽ ra con người đã thoát khỏi nếu đã không phạm tội”,588 cũng là “thù địch… cuối cùng” (1 Cr 15,26) mà con người phải chiến thắng.

1009612

Sự chết được Đức Ki-tô biến đổi. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, cũng đã chịu chết vì chết là đặc điểm của thân phận nhân loại. Nhưng chính Người, tuy run sợ khi đối diện với sự chết,589 đã đảm nhận nó trong một hành vi suy phục thánh ý Cha Người cách trọn vẹn và tự nguyện. Sự vâng phục của Chúa Giê-su đã biến đổi lời chúc dữ của sự chết thành lời chúc lành.590

Ý nghĩa của sự chết theo Ki-tô Giáo (1010-1014) [1681-1690]

10101220

Nhờ Đức Ki-tô, sự chết theo Ki-tô Giáo có một ý nghĩa tích cực. “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết [với Người], ta sẽ cùng sống [với Người]” (2 Tm 2,11). Sự mới mẻ chủ yếu của cái chết theo Ki-tô Giáo là điều này: nhờ Phép Rửa, Ki-tô hữu đã “chết với Đức Ki-tô” một cách bí tích, để sống một đời sống mới; nếu chúng ta chết trong ân sủng của Đức Ki-tô, sự chết thể lý sẽ hoàn tất việc “chết với Đức Ki-tô” đó, và như vậy, nó hoàn thành việc tháp nhập chúng ta vào Người trong hành vi cứu chuộc của Người:

“Tôi thà chết trong Đức Ki-tô Giê-su, hơn là cai trị toàn cõi trái đất. Tôi tìm kiếm Người, Đấng đã chết cho chúng ta; tôi khao khát Người, Đấng đã phục sinh vì chúng ta. Giờ tôi được sinh ra đã đến gần… Anh em hãy để tôi nhận lãnh ánh sáng tinh tuyền; khi tôi tới được đó, tôi sẽ là một con người.”591

10111025

Trong sự chết Thiên Chúa kêu gọi con người đến với Ngài. Vì vậy, đối với cái chết, Ki-tô hữu có thể mong ước giống như thánh Phao-lô: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô” (Pl 1,23); và họ có thể biến đổi cái chết riêng của mình thành một hành vi vâng phục và yêu mến đối với Chúa Cha theo gương Đức Ki-tô:592

“Tình yêu của tôi đã bị đóng đinh vào thập giá;… Một mạch nước đang sống và đang nói ở trong tôi, nói với tôi tự bên trong rằng: ‘Hãy đến với Chúa Cha’.”593

“Con nóng lòng được nhìn thấy Chúa, nên con muốn chết.”594

“Tôi không chết, tôi đang bước vào cõi sống.”595

1012

Cái nhìn của Ki-tô Giáo về sự chết596 được diễn tả một cách rõ ràng trong phụng vụ của Hội Thánh:

“Lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi;
và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan
thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời.”597

1013

Sự chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế của con người, là kết thúc thời gian của ân sủng và của lòng thương xót mà Thiên Chúa ban cho con người để họ thực hiện cuộc đời trần thế của mình theo kế hoạch của Thiên Chúa và để họ quyết định số phận tối hậu của mình. “Sau khi kết thúc dòng đời duy nhất là cuộc đời trần thế của chúng ta”,598 chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc đời trần thế khác. “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9,27). Không có việc “đầu thai” (“reincarnatio”) sau khi chết.

10142676-2677

Hội Thánh khuyên chúng ta hãy chuẩn bị cho giờ chết của chúng ta (“Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi chết đột ngột và bất ngờ”: Kinh Cầu Các Thánh cũ), hãy khấn xin Mẹ Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta “trong giờ lâm tử” (kinh Kính Mừng) và hãy phó thác cho thánh Giu-se là bổn mạng của ơn chết lành:

“Trong mọi hành động và suy nghĩ, con phải xử sự như con sắp chết tức thì. Nếu con có lương tâm tốt lành, con sẽ không quá sợ sự chết. Xa lánh tội lỗi thì tốt hơn là trốn tránh sự chết. Nếu hôm nay con không sẵn sàng, thì làm sao ngày mai con sẵn sàng được?”599

“Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì chị chết thể xác,
không người nào sống mà có thể thoát được chị.
Khốn cho những ai chết trong những tội trọng;
phúc cho những ai, mà chị gặp, đang ở trong thánh ý Chúa,
bởi vì cái chết thứ hai sẽ không làm gì hại cho họ.”600

Tóm lược (1015-1019)

1015

“Thân xác là then chốt của ơn cứu độ.”601 Chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo dựng thân xác. Chúng ta tin vào Ngôi Lời đã trở nên xác phàm để cứu chuộc thân xác. Chúng ta tin “xác loài người ngày sau sống lại”, là tột đỉnh của công trình tạo dựng và cứu chuộc thân xác.

1016

Do sự chết, linh hồn bị tách biệt khỏi thân xác, nhưng khi phục sinh, Thiên Chúa sẽ trả lại sự sống bất hoại cho thân xác đã được biến đổi của chúng ta, Ngài lại kết hợp nó với linh hồn chúng ta. Cũng như Đức Ki-tô đã phục sinh và sống muôn đời, tất cả chúng ta sẽ sống lại trong ngày sau hết.

1017

“Chúng ta tin… sự phục sinh thật của thân xác này, mà giờ đây chúng ta đang mang.”602 Tuy nhiên, được gieo xuống mồ là thân xác hư hoại, phục sinh là thân xác bất hoại,603 “thân xác có thần khí” (1 Cr 15,44).

1018

Do hậu quả của tội tổ tông, con người phải chịu chết về phần xác, “mà lẽ ra con người đã thoát khỏi nếu đã không phạm tội.”604

1019

Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, đã tự nguyện chịu chết vì chúng ta trong sự suy phục thánh ý Thiên Chúa, Cha của Người, một cách trọn vẹn và tự nguyện. Bằng cái chết của Người, Người đã chiến thắng sự chết, và như vậy, mở ra cho tất cả mọi người khả năng được cứu độ.


Chú thích

558 X. Ga 6,39-40.

559 X. 1 Tx 4,14; 1 Cr 6,14; 2 Cr 4,14; Pl 3,10-11.

560 X. St 6,3; Tv 56,5; Is 40,6.

561 Tertullianô, De resurrectione mortuorum 1, 1: CCL 2,921 (PL 2,841).

562 X. 2 Mcb 7,29; Đn 12,1-13.

563 X. Cv 23,6.

564 X. Ga 11,24.

565 X. Ga 5,24-25; 6,40.

566 X. Ga 6,54.

567 X. Mc 5,21-43; Lc 7,11-17; Ga 11.

568 X. Mt 12,39.

569 X. Ga 2,19-22.

570 X. Mc 10,34.

571 X. Cv 4,33.

572 X. Cv 17,32; 1 Cr 15,12-13.

573 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 88, 2, 5: CCL 39,1237 (PL 37,1134).

574 X. Đn 12,2.

575 CĐ La-tê-ra-nô IV, Cap. 1, De fide catholica: DS 801.

576 X. Pl 3,21.

577 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 18, 5: SC 100,610-612 (PG 7,1028-1029).

578 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.

579 X. Pl 3,20.

580 X. Pl 1,23.

581 X. ĐGH Phao-lô VI, Sollemnis Professio fidei, 28: AAS 60 (1968) 444.

582 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.

583 X. St 2,17.

584 X. Rm 6,3-9; Pl 3,10-11.

585 X. St 2,17; 3,3.19; Kn 1,13; Rm 5,12; 6,23.

586 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 5a, Decretum de peccato originali, canon 1: DS 1511.

587 X. Kn 2,23-24.

588 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.

589 X. Mc 14,33-34; Dt 5,7-8.

590 X. Rm 5,19-21.

591 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Romanos, 6, 1-2: SC 10bis 114 (Funk 1,258-260).

592 X. Lc 23,26.

593 Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a, Epistula ad Romanos, 7, 2: SC 10bis 116 (Funk 1,260).

594 Thánh Tê-rê-sa Giê-su, Poesía 7: Biblioteca Mística Carmelitana, v.6 (Burgos 1919) 86.

595 Thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su, Lettre (9-6-1897): Correspondance Générale, v. 2 (Paris 1973) 1015.

596 X. 1 Tx 4,13-14.

597 Kinh Tiền Tụng I cầu cho các tín hữu đã qua đời: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 439.

598 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.

599 De imitatione Christi, 1, 23, 5-8: ed. T. Lupo (Città del Vaticano 1982) 70.

600 Thánh Phan-xi-cô Assisi, Canticum Fratris Solis: Opuscula sancti Patris Francisci Assisiensis, ed. C. Esser (Grottaferrata 1978) 85-86.

601 Tertullianô, De resurrectione mortuorum, 8, 2: CCL 2,931 (PL 2,852).

602 CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris: DS 854.

603 X. 1 Cr 15,42.

604 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 18: AAS 58 (1966) 1038.

Scroll to Top