Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

I. Sự công chính hóa (1987-1995)

1987734

Ân sủng của Chúa Thánh Thần có sức mạnh công chính hóa chúng ta, nghĩa là, rửa chúng ta sạch tội lỗi, và truyền thông cho chúng ta sự công chính của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô40 và nhờ bí tích Rửa Tội:41

“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su” (Rm 6,8-11).

1988654, 460

Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được tham dự vào cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô khi chết cho tội lỗi, và được tham dự vào sự phục sinh của Người khi được sinh vào đời sống mới; chúng ta là những chi thể của Thân Thể Người là Hội Thánh,42 là những ngành nho được ghép vào Cây nho là chính Đức Ki-tô:43

“Nhờ Thần Khí chúng ta được dự phần vào Thiên Chúa. Nhờ sự truyền thông Thần Khí, chúng ta được trở nên những người đồng phận với bản tính thần linh… Vì thế, những ai có Thần Khí ngự nơi mình, đều được thần linh hóa.”44

19891427

Công trình đầu tiên của ân sủng của Chúa Thánh Thần là sự hối cải, việc này thực hiện sự công chính hóa theo lời rao giảng của Chúa Giê-su lúc khởi đầu Tin Mừng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17). Dưới tác động của ân sủng, con người quay về với Thiên Chúa và quay lưng lại với tội lỗi, và như vậy, đón nhận ơn tha thứ và sự công chính từ trên cao. “Sự công chính hóa… không chỉ là sự tha tội, nhưng còn là sự thánh hóa và canh tân con người nội tâm.”45

19901446, 1733

Sự công chính hóa giải thoát con người khỏi tội lỗi là điều đối nghịch lại tình yêu của Thiên Chúa, và thanh tẩy trái tim họ khỏi tội lỗi. Sự công chính hóa là do sáng kiến của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng ban ơn tha thứ. Nó giao hòa con người với Thiên Chúa. Nó giải thoát khỏi sự nô lệ tội lỗi và nó chữa lành.

19911812

Sự công chính hóa đồng thời là việc đón nhận sự công chính của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Ở đây, sự công chính cho thấy sự ngay thẳng của tình yêu của Thiên Chúa. Cùng với sự công chính hóa, đức tin, đức cậy và đức mến được đổ tràn vào trái tim chúng ta và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa được ban cho chúng ta.

1992617, 1266, 294

Sự công chính hóa là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô cho chúng ta, Người là Đấng đã tự hiến trên thập giá như của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên dụng cụ đền tội vì tội lỗi của mọi người. Sự công chính hóa được ban nhờ Phép Rửa, là bí tích của đức tin. Nó làm cho chúng ta nên phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng nhờ quyền năng của lòng thương xót của Ngài làm cho chúng ta nên công chính tự bên trong. Sự công chính hóa có mục tiêu là vinh quang của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu.46

“Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do hồng ân Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấngï Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Ngài đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Ngài muốn cho thấy rằng Ngài vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giê-su được nên công chính” (Rm 3,21-26).

19932008, 2068

Sự công chính hóa thiết lập sự cộng tác giữa ân sủng của Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, sự công chính hóa được diễn tả trong sự ưng thuận của đức tin đối với lời Thiên Chúa, Đấng mời gọi con người hối cải, và trong sự cộng tác của đức mến với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Đấng khởi xướng và gìn giữ sự ưng thuận đó:

“Khi Thiên Chúa đánh động trái tim con người nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, con người không phải là không làm gì khi đón nhận sự linh hứng này, vì họ có thể khước từ sự linh hứng đó; tuy nhiên, nếu không có ân sủng của Thiên Chúa, họ không thể đạt tới sự công chính trước mặt Ngài bằng ý chí tự do của mình.”47

1994312, 412

Sự công chính hóa là công trình vô cùng tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Ki-tô Giê-su và được Chúa Thánh Thần ban tặng. Thánh Augustinô cho rằng “việc công chính hóa kẻ vô đạo là một công trình còn lớn lao hơn cả trời đất… Quả vậy, trời đất sẽ qua đi; còn ơn cứu độ và công chính hóa những người được tiền định sẽ tồn tại.”48 Thánh nhân còn cho rằng sự công chính hóa các kẻ tội lỗi vượt trên công trình tạo dựng các Thiên thần trong sự công chính, vì điều này làm chứng lòng thương xót lớn lao hơn của Thiên Chúa.

1995741

Chúa Thánh Thần là vị thầy nội tâm. Sự công chính hóa, khi làm cho “con người nội tâm” được sinh ra,49 bao hàm sự thánh hoá toàn thể con người:

“Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện… Nhưng giờ đây, anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi, mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời đời” (Rm 6,19.22).

II. Ân sủng (1996-2005)

1996153

Sự công chính hóa của chúng ta là do ân sủng của Thiên Chúa. Ân sủng là một hồng ân, một sự trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Ngài: trở thành con cái Thiên Chúa,50 làm nghĩa tử,51 tham dự vào bản tính Thiên Chúa,52 và vào sự sống muôn đời.53

1997375, 260

Ân sủng là sự tham dự vào sự sống Thiên Chúa, đưa chúng ta vào sự thân mật của sự sống Chúa Ba Ngôi: nhờ bí tích Rửa Tội, Ki-tô hữu tham dự vào ân sủng của Đức Ki-tô, Đầu của Thân Thể Người. Với tư cách là “nghĩa tử”, họ có thể gọi Thiên Chúa là “Cha”, trong sự kết hợp với Người Con Một. Họ lãnh nhận sự sống của Thần Khí, Đấng thổi hơi đức mến trên họ và là Đấng hình thành Hội Thánh.

19981719

Ơn gọi vào sự sống vĩnh cửu này là một ơn siêu nhiên. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa, bởi vì chỉ mình Ngài có thể tự mặc khải và tự ban tặng chính mình. Ơn gọi đó vượt trên mọi tài năng của trí tuệ và sức mạnh của ý chí nhân linh, cũng như của mọi thụ tạo.54

19991966

Ân sủng của Đức Ki-tô là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban cho chúng ta từ sự sống của Ngài, nhờ Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn chúng ta để chữa trị nó khỏi tội lỗi và thánh hóa nó: Đó là ơn thánh hóa hay ơn thần linh hóa, được lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội. Ân sủng này là nguồn mạch của công trình thánh hóa trong chúng ta:55

“Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được giao hòa với Ngài” (2 Cr 5,17-18).

2000

Ơn thánh hóa là một hồng ân thường xuyên, một trạng thái bền vững và siêu nhiên, kiện toàn chính linh hồn để nó có khả năng sống với Thiên Chúa và hành động vì tình yêu của Ngài. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng (gratia habitualis) là trạng thái trường tồn để sống và hành động theo lời kêu gọi của Thiên Chúa, và các ơn hiện sủng (gratiae actuales) là những can thiệp của Thiên Chúa, hoặc vào lúc khởi đầu cuộc hối cải, hoặc trong tiến trình của công cuộc thánh hóa.

2001490

Sự chuẩn bị của con người để đón nhận ân sủng đã là một công trình của ân sủng. Điều này là cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, và vào việc thánh hóa nhờ đức mến. Thiên Chúa kiện toàn nơi chúng ta điều Ngài đã khởi sự, “vì Ngài khởi sự bằng cách tác động để chúng ta ước muốn, Ngài kiện toàn bằng cách cộng tác với những người đã muốn”:56

“Thật ra, khi chúng ta làm việc, là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc, bởi vì lòng thương xót của Ngài đi bước trước đến với chúng ta. Ngài đi bước trước, để chúng ta được chữa lành, và Ngài dõi theo sau để sau khi được chữa lành, chúng ta nên cường tráng; Ngài đi bước trước, để chúng ta được kêu gọi, Ngài dõi theo sau để chúng ta được vinh quang; Ngài đi bước trước, để chúng ta sống một cách đạo đức, Ngài dõi theo sau để chúng ta được luôn luôn sống với Ngài, bởi vì không có Ngài, chúng ta không thể làm được gì.”57

20021742, 2550

Sáng kiến tự do của Thiên Chúa đòi hỏi sự đáp trả tự do của con người, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, khi ban cho họ, cùng với sự tự do, khả năng nhận biết và yêu mến Ngài. Linh hồn chỉ tự nguyện mới có thể tiến vào sự hiệp thông của tình yêu. Thiên Chúa trực tiếp đụng chạm và đánh động trái tim con người. Ngài đặt trong con người sự khát vọng chân lý và điều thiện mà chỉ mình Ngài có thể làm thỏa mãn. Các lời hứa ban “sự sống đời đời” đáp lại khát vọng này, vượt quá mọi hy vọng:

“Lạy Chúa, sau những công trình rất tốt đẹp của Chúa, mặc dầu Chúa đã thanh thản làm nên chúng, Chúa đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy, chính là để nói trước với chúng con qua tiếng nói trong Sách của Chúa rằng, sau những công trình rất tốt đẹp của chúng con mà chính Chúa đã ban cho chúng con, thì chúng con sẽ nghỉ ngơi trong ngày sa-bát của đời sống vĩnh cửu trong Chúa.”58

20031108, 1127, 799-801

Ân sủng, trước hết và đặc biệt, là hồng ân của Thần Khí, Đấng công chính hóa và thánh hóa chúng ta. Nhưng ân sủng cũng gồm các hồng ân Thần Khí rộng ban cho chúng ta để liên kết chúng ta vào công trình của Ngài, để làm cho chúng ta có khả năng cộng tác vào công trình cứu độ những người khác và làm phát triển Thân Thể Đức Ki-tô là Hội Thánh. Đó là các ân sủng bí tích (gratiae sacramentales), là những hồng ân riêng cho những bí tích khác nhau. Ngoài ra, còn có các ân sủng đặc biệt (gratiae speciales) gọi là các đặc sủng (charismata) theo từ Hi lạp, mà thánh Phao-lô sử dụng, có nghĩa là đặc ân, hồng ân nhưng không, phúc lợi.59 Dù có đặc tính nào đi nữa, đôi khi là ngoại thường, như ơn làm phép lạ hay ơn nói tiếng lạ, các đặc sủng đều quy hướng về ơn thánh hóa và có mục tiêu là công ích của Hội Thánh. Các đặc sủng đều phục vụ đức mến là nhân đức xây dựng Hội Thánh.60

2004

Trong các ân sủng đặc biệt, phải kể đến các ơn chức phận (gratiae status) là những ơn được ban để thực thi các trách nhiệm của đời sống Ki-tô hữu và các thừa tác vụ trong Hội Thánh:

“Chúng ta có những đặc sủng khác nhau tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái, thì vui vẻ mà làm” (Rm 12,6-8).

2005

Ân sủng, vì là siêu nhiên, nên vượt tầm kinh nghiệm của chúng ta, và chỉ có thể được nhận biết bằng đức tin. Vì vậy, chúng ta không thể dựa trên tình cảm hay các việc làm của chúng ta để từ đó suy ra rằng chúng ta đã được công chính hóa hay được cứu độ.61 Tuy nhiên, theo lời Chúa phán: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7,20), việc nhìn xem các hồng ân của Thiên Chúa, trong đời sống chúng ta và trong đời sống các Thánh, mang lại cho chúng ta một bảo chứng là ân sủng đang hoạt động trong chúng ta và khơi dậy nơi chúng ta một đức tin luôn vững mạnh hơn, và một thái độ nghèo khó đầy tín thác.

Một trong những minh họa đẹp nhất của thái độ này là câu trả lời của thánh nữ Gioanna xứ Arc (Jean d’Arc) trước một câu hỏi gài bẫy của các quan tòa của Giáo Hội: “Khi bị hỏi: cô có biết mình đang sống trong ân sủng của Thiên Chúa hay không, cô trả lời: ‘Nếu tôi chưa có, xin Chúa ban cho tôi; nếu tôi có rồi, xin Chúa thương gìn giữ tôi trong ân sủng Ngài’.”62

“Chúa được tôn vinh trong cộng đoàn các Thánh, và khi tuyên dương công trạng của các ngài, Chúa tuyên dương chính hồng ân của Chúa.”63

III. Công trạng (2006-2011)

20061723, 1807

Từ “công trạng” thường được dùng để chỉ sự trả công mà cộng đồng hay xã hội đánh giá hành động của một thành viên của mình, xét như điều đó tốt hay xấu, đáng được thưởng hay bị phạt. Công trạng thuộc về nhân đức công bằng theo nguyên tắc về sự bình đẳng, là nguyên tắc chi phối nhân đức đó.

200742

Trước mặt Thiên Chúa, theo nghĩa hẹp về quyền lợi, con người không có công trạng gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có sự bất bình đẳng không thể đo lường, bởi vì chúng ta đón nhận mọi sự từ nơi Ngài, là Đấng Tạo hóa của chúng ta.

2008306, 155, 970

Công trạng của con người trước mặt Thiên Chúa trong đời sống Ki-tô hữu là do Thiên Chúa đã tự ý muốn liên kết con người với công trình của ân sủng của Ngài. Hành động đầy tình phụ tử của Thiên Chúa, bằng sự thúc đẩy của ân sủng, là trước hết, thứ đến mới là hành động tự do của con người trong sự cộng tác của họ, cho nên các công trạng của các việc tốt lành trước hết phải được quy về ân sủng của Thiên Chúa, rồi mới quy về tín hữu. Ngoài ra chính công trạng của con người phải quy về Thiên Chúa, bởi vì các việc tốt lành của họ đều diễn ra trong Đức Ki-tô, nhờ những khởi xướng và trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

2009604

Nhờ ân sủng, ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công chính nhưng không của Thiên Chúa. Đây là một quyền có được nhờ ân sủng, quyền sung mãn của tình yêu, làm cho chúng ta nên những người “đồng thừa tự” với Đức Ki-tô và xứng đáng được hưởng phần gia tài đã được hứa ban là đời sống vĩnh cửu.64 Công trạng do các việc tốt lành của chúng ta là những hồng ân của lòng nhân hậu của Thiên Chúa.65 “Ân sủng đã được ban trước, giờ đây nợ được trả… Các hồng ân của Thiên Chúa là những công trạng của bạn.”66

20101998

Vì sự khởi xướng trong lãnh vực ân sủng thuộc về Thiên Chúa, nên không ai có thể có công trạng gì để lãnh nhận ân sủng đầu tiên nơi cội nguồn việc hối cải, ơn tha thứ và sự công chính hóa. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần và của đức mến, chúng ta mới có thể lập công cho bản thân và cho tha nhân để được những ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa, cho việc gia tăng ân sủng và đức mến của chúng ta, cũng như để đạt tới sự sống vĩnh cửu. Theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để đáng lãnh nhận những lợi ích trần thế, như sức khoẻ, tình bằng hữu. Những ân sủng và hồng ân này là đối tượng của kinh nguyện Ki-tô Giáo. Việc cầu nguyện đem lại ân sủng cần thiết cho chúng ta để các hành động có được công trạng.

2011492, 1460

Tình yêu Đức Ki-tô trong chúng ta là nguồn mạch mọi công trạng của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Ân sủng, khi kết hợp chúng ta với Đức Ki-tô bằng một tình yêu năng động, bảo đảm phẩm tính siêu nhiên của các hành vi của chúng ta và do đó, bảo đảm công trạng của các việc đó trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt người ta. Các Thánh luôn ý thức mãnh liệt rằng các công trạng của các ngài hoàn toàn là ân sủng:

“Sau cuộc lưu đày trần thế, con hy vọng sẽ được về vui hưởng Chúa nơi Quê hương, nhưng con không muốn thu thập công trạng để được lên trời, con muốn làm việc chỉ vì tình yêu Chúa mà thôi… Lúc cuộc đời xế bóng, con sẽ đến trước mặt Chúa với đôi bàn tay trắng, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Mọi sự công chính của chúng con đều mang tì vết trước mắt Chúa. Vì vậy, con muốn được mặc lấy sự công chính của chính Chúa và đón nhận từ tình yêu Chúa phần sở hữu muôn đời là chính Chúa…”.67

IV. Sự thánh thiện Ki-tô Giáo (2012-2016)

2012459

“Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài… Vì những ai Ngài đã biết từ trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, để Con của Ngài làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,28-30).

2013915, 2545, 825

“Tất cả các Ki-tô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Ki-tô hữu và đến sự trọn hảo của đức mến.”68 Mọi người đều được kêu gọi nên thánh: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48):

“Để đạt được sự trọn hảo đó, các tín hữu phải sử dụng những sức mạnh mình đã lãnh nhận tùy theo mức độ Đức Ki-tô đã ban, để… khi thực hành thánh ý Chúa Cha trong mọi sự, họ sẽ hiến thân với hết tâm hồn cho vinh quang Thiên Chúa và cho việc phục vụ người lân cận. Như vậy, sự thánh thiện của dân Thiên Chúa sẽ trổ sinh hoa trái dồi dào, như đã thấy một cách rõ ràng trong lịch sử Hội Thánh qua đời sống của bao vị thánh.”69

2014

Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng hướng đến sự kết hợp ngày càng mật thiết hơn với Đức Ki-tô. Sự kết hợp này được gọi là “thần bí” (“mystica”), bởi vì tham dự vào mầu nhiệm Đức Ki-tô nhờ các bí tích – “các mầu nhiệm thánh” (“sancta mysteria”) -, và trong Người, tham dự vào mầu nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh. Thiên Chúa kêu gọi tất cả chúng ta đến sự kết hợp mật thiết này với Ngài, mặc dù những ân sủng đặc biệt và những dấu chỉ ngoại thường của đời sống thần bí này chỉ được ban cho một số người, để biểu lộ hồng ân nhưng không được ban cho mọi người.

2015407, 2725, 1438

Con đường của sự trọn hảo phải đi qua thập giá. Không thể có sự thánh thiện, nếu không có sự từ bỏ và cuộc chiến đấu thiêng liêng.70 Sự tiến bộ về đời sống thiêng liêng bao hàm sự khổ chế và hy sinh hãm mình, là những điều từng bước dẫn tới việc sống trong bình an và hoan lạc của các mối phúc:

“Ai trèo lên, người đó không bao giờ ngừng từ bắt đầu này tiếp sau bắt đầu kia, qua những bắt đầu không chấm dứt. Người đó không bao giờ ngừng ao ước điều người đó đã biết rồi.”71

2016162, 1821, 1274

Các con cái của Mẹ thánh chúng ta là Hội Thánh, hy vọng một cách chính đáng được Thiên Chúa là Cha ban ơn bền đỗ đến cùng và sự trả công vì những công việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng của Ngài trong sự hiệp thông với Chúa Giê-su.72 Các tín hữu, tuân giữ cùng một quy luật sống, được tham dự vào “niềm hy vọng hồng phúc” của những người mà lòng thương xót của Thiên Chúa đã quy tụ trong “Thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21,2).

Tóm lược (2017-2029)

2017

Ân sủng của Chúa Thánh Thần đem lại cho chúng ta sự công chính của Thiên Chúa. Khi kết hợp chúng ta, nhờ đức tin và Phép Rửa, vào cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đức Ki-tô, Thần Khí làm cho chúng ta được tham dự vào sự sống của Người.

2018

Cũng như sự hối cải, sự công chính hóa có hai phương diện. Dưới tác động của ân sủng, con người quay về với Thiên Chúa và quay lưng lại với tội lỗi, và như vậy, đón nhận ơn tha thứ và sự công chính từ trên cao.

2019

Sự công chính hóa bao hàm sự tha thứ tội lỗi, sự thánh hóa và sự canh tân con người nội tâm.

2020

Sự công chính hóa là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô cho chúng ta. Nó được ban cho chúng ta nhờ Phép Rửa. Nó làm cho chúng ta nên phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta nên công chính. Sự công chính hóa có mục tiêu là vinh quang của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, và hồng ân của đời sống vĩnh cửu. Nó là công trình hết sức tuyệt vời của lòng thương xót của Thiên Chúa.

2021

Ân sủng là sự trợ giúp Thiên Chúa ban cho chúng ta, để chúng ta đáp lại lời kêu gọi là trở thành nghĩa tử của Ngài. Ân sủng đưa chúng ta vào sự thân mật của sự sống Chúa Ba Ngôi.

2022

Trong công trình của ân sủng, sáng kiến của Thiên Chúa đi bước trước, chuẩn bị và khơi dậy lời đáp trả tự do của con người. Ân sủng đáp ứng những khát vọng sâu xa của sự tự do của con người; ân sủng kêu gọi sự tự do đó cộng tác với mình, và kiện toàn sự tự do đó.

2023

Ơn thánh hóa là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban cho chúng ta từ sự sống của Ngài, nhờ Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào linh hồn chúng ta, để chữa trị nó khỏi tội lỗi và thánh hóa nó.

2024

Ơn thánh hóa làm cho chúng ta nên “đẹp lòng Thiên Chúa.” Còn các đặc sủng, là những ân sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, quy về ơn thánh hóa, và có mục tiêu là công ích của Hội Thánh. Thiên Chúa cũng hành động qua nhiều ơn hiện sủng, được phân biệt với ơn thường sủng trường tồn trong chúng ta.

2025

Trước mặt Thiên Chúa chúng ta không có công trạng gì, nếu Thiên Chúa đã không có một kế hoạch tự do, muốn liên kết con người với công trình của ân sủng của Ngài. Công trạng trước hết thuộc về ân sủng của Thiên Chúa, thứ đến mới thuộc về sự cộng tác của con người. Công trạng của con người quy về Thiên Chúa.

2026

Vì chúng ta được làm nghĩa tử, ân sủng của Chúa Thánh Thần có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công chính nhưng không của Thiên Chúa. Tình yêu trong chúng ta là nguồn mạch chủ yếu của mọi công trạng trước mặt Thiên Chúa.

2027

Không ai có thể có công trạng gì để lãnh nhận ân sủng đầu tiên là cội nguồn của việc hối cải. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể lập công cho bản thân và cho tha nhân để được mọi ân sủng hữu ích nhằm đạt tới sự sống vĩnh cửu, cũng như những lợi ích trần thế cần thiết.

2028

“Tất cả các Ki-tô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Ki-tô hữu và đến sự trọn hảo của đức mến.”73 “Sự trọn hảo Ki-tô Giáo chỉ có một giới hạn, đó là không có giới hạn nào cả.”74

2029

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).


Chú thích

40 X. Rm 3,22.

41 X. Rm 6,3-4.

42 X. 1 Cr 12.

43 X. Ga 15,1-4.

44 Thánh A-tha-na-si-ô thành A-lê-xan-ri-a, Epistula ad Serapionem, 1, 24: PG 26,585-588.

45 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1528.

46 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 7: DS 1529.

47 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 5: DS 1525.

48 Thánh Augustinô, In Iohannis evangelium tractatus, 72,3: CCL 36,508 (PL 35,1823).

49 X. Rm 7,22; Ep 3,16.

50 X. Ga 1,12-18.

51 X. Rm 8,14-17.

52 X. 2 Pr 1,3-4.

53 X. Ga 17,3.

54 X. 1 Cr 2,7-9.

55 X. Ga 4,14; 7,38-39.

56 Thánh Augustinô, De gratia et libero arbitrio, 17, 33: PL 44,901.

57 Thánh Augustinô, De natura et gratia, 31, 35: CSEL 49,258-259 (PL 44,264).

58 Thánh Augustinô, Confessiones, 13, 36, 51: CCL 27,272 (PL 32,868).

59 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 12: AAS 57 (1965) 16-17.

60 X. 1 Cr 12.

61 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 9: DS 1533-15324.

62 Thánh Gioana xứ Arc [Jean d’Arc], Dictum: Procès de condamnation, ed. P. Tisset (Paris 1960) 62.

63 Kinh tiền tụng lễ Các Thánh I: Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 428; x. Thánh Augustinô, “Tiến sĩ về ân sủng”, Enarratio in Psalmum 102, 7: CCL 40,1457 (PL 37,1321).

64 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1546.

65 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1548.

66 Thánh Augustinô, Sermo 298, 4-5: SPM 1,98-99 (PL 38,1367).

67 Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, Acte d’offrande à l’Amour miséricordieux: Récréations pieuses – Prières (Paris 1992) 514-515.

68 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 40: AAS 57 (1965) 45.

69 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 40: AAS 57 (1965) 45.

70 X. 2 Tm 4.

71 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, In Canticum homilia 8: Gregorii Nysseni opera, ed. W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 6 (Leiden 1960) 247 (PG 44,941).

72 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canon 26: DS 1576.

73 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium 40: AAS 57 (1965).

74 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, De vita Moysis, 1, 5: ed. M. Simonetti (Vicenza 1984) 10 (PG 44,300).

Scroll to Top