Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

63890, 651, 991

“Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ông, khi làm cho Chúa Giê-su sống lại” (Cv l3,32-33). Sự Sống Lại của Chúa Giê-su là chân lý cao cả nhất của đức tin chúng ta vào Đức Ki-tô, với tính cách là một chân lý trung tâm đã được tin và thể hiện trong cuộc sống bởi cộng đoàn Ki-tô Giáo tiên khởi, đã được lưu truyền bởi Thánh Truyền như chân lý nền tảng, đã được xác lập bởi các văn kiện của Tân Ước, và được rao giảng, đồng thời cùng với thập giá, như là phần thiết yếu của mầu nhiệm Vượt Qua:

“Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết,
Nhờ cái Chết của Người, Người đã chiến thắng sự chết,
Người đã ban sự sống cho những kẻ đã chết.”542

I. Biến cố lịch sử và siêu việt (639-647)

639

Mầu nhiệm của sự Sống lại của Đức Ki-tô là một biến cố có thật, với những cuộc tỏ hiện đã được kiểm chứng theo lịch sử, như Tân Ước làm chứng. Khoảng năm 56, thánh Phao-lô đã có thể viết cho tín hữu Côrintô: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai” (1 Cr l5,3-4). Ở đây vị Tông Đồ nói đến truyền thống sống động về sự Sống lại mà ngài đã học được sau cuộc hối cải của ngài ở cổng thành Đamas.543

Ngôi mộ trống (640)

640999

“Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi” (Lc 24,5-6). Trong các biến cố Vượt Qua, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống. Tự nó, điều này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân thể Đức Ki-tô không còn trong mộ có thể được giải thích cách khác.544 Dầu vậy, ngôi mộ trống vẫn là một dấu chỉ căn bản đối với mọi người. Việc phát hiện ngôi mộ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Sống lại. Trước hết đó là trường hợp của các phụ nữ thánh thiện,545 rồi đến ông Phê-rô.546 Người môn đệ “Chúa Giê-su thương mến” (Ga 20,2), khi vào trong mộ và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga 20,6), khẳng định rằng ông đã thấy và đã tin.547 Điều này giả thiết rằng khi thấy ngôi mộ trống548 ông đã nhận ra rằng việc thân thể Chúa Giê-su không còn đó không phải là một việc do người phàm và Chúa Giê-su đã không đơn thuần trở lại cuộc sống trần thế như trường hợp anh Lazarô.549

Những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh (641-644)

641553, 448

Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và các phụ nữ thánh thiện, những người đã đến để hoàn thành việc xức dầu cho thân thể của Chúa Giê-su,550 vốn được mai táng cách vội vã vào chiều ngày Thứ Sáu vì đã đến ngày sa-bát,551 là những người đầu tiên được gặp Đấng Phục Sinh.552 Như vậy, các phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo sự sống lại của Đức Ki-tô cho chính các Tông Đồ.553 Sau đó Chúa Giê-su hiện ra với các ông, trước hết là với ông Phê-rô, sau đó với nhóm Mười Hai.554 Vì vậy, ông Phê-rô, người đã được kêu gọi để củng cố đức tin của các anh em mình,555 đã thấy Đấng Phục Sinh trước các anh em và dựa trên chứng từ của ông mà cộng đoàn kêu lên: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34).

642659, 881, 860

Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó, đòi buộc mỗi vị Tông Đồ, đặc biệt là ông Phê-rô, xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đã bắt đầu từ sáng ngày Vượt Qua. Với tư cách là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các ngài mãi là những tảng đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin của cộng đoàn các tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Ki-tô hữu quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ. “Những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô”556 trước hết là ông Phê-rô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy: ông Phao-lô nói đến hơn năm trăm người đã được Chúa Giê-su hiện ra một lượt, rồi với ông Gia-cô-bê và với tất cả các Tông Đồ.557

643

Trước những lời chứng đó, không thể giải thích rằng sự phục sinh của Đức Ki-tô nằm bên ngoài trật tự thể lý, và không thể không công nhận sự phục sinh đó có tính cách là một sự kiện lịch sử. Qua các sự kiện, người ta thấy rõ là đức tin của các môn đệ đã bị lung lay tận gốc do cuộc khổ nạn và cái Chết trên thập giá của Thầy họ, mà chính Người đã báo trước.558 Sự chấn động tâm hồn do cuộc khổ nạn gây nên là mạnh mẽ đến nỗi các môn đệ (hoặc ít nhất một số người trong họ) không tin ngay lời loan báo về việc Sống Lại. Các sách Tin Mừng không hề trình bày cho chúng ta thấy một cộng đoàn đầy hứng khởi thần bí; nhưng cho chúng ta thấy những môn đệ mất tinh thần (“buồn rầu”: Lc 24,17) và hoảng sợ.559 Vì vậy, họ đã không tin các phụ nữ thánh thiện từ ngôi mộ trở về, và những lời của các bà, họ “cho là chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11).560 Khi Chúa Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một chiều ngày Vượt Qua, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại” (Mc 16,14).

644

Các môn đệ, cả khi đứng trước thực tại Chúa Giê-su phục sinh, vẫn còn nghi ngờ;561 đối với các ông, coi như không thể nào có việc ấy: họ tưởng là thấy ma,562 “các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tô-ma cũng đã nghi ngờ như vậy,563 và trong dịp hiện ra lần cuối cùng mà sách Mát-thêu thuật lại, “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Vì vậy, giả thuyết cho rằng sự Phục Sinh là “sản phẩm” của lòng tin (hay sự dễ tin) của các Tông Đồ, không có cơ sở. Hoàn toàn trái lại, đức tin của các ông vào sự Phục Sinh phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại Chúa Giê-su sống lại, dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.

Trạng thái nhân tính đã phục sinh của Đức Ki-tô (645-646)

645999

Chúa Giê-su phục sinh liên hệ trực tiếp với các môn đệ của Người qua đụng chạm564 và qua việc chia sẻ thực phẩm.565 Như vậy, Người mời gọi họ nhìn nhận Người không phải là ma,566 nhưng nhất là để các ông thấy rõ rằng thân thể phục sinh của Người đang hiện diện với các ông, chính là thân thể đã bị hành hạ và bị đóng đinh vào thập giá, bởi vì thân thể đó vẫn còn mang các dấu vết của cuộc khổ nạn của Người.567 Tuy nhiên, thân thể đích thực và hiện thực này đồng thời có những đặc tính mới của một thân thể vinh hiển: thân thể đó không còn bị ràng buộc trong không gian và thời gian nữa, nhưng có thể tự do hiện diện ở đâu và lúc nào Người muốn,568 bởi vì nhân tính của Người không còn có thể bị ràng buộc ở trần thế nữa và chỉ thuộc về quyền năng thần linh của Chúa Cha.569 Cũng vì vậy, Chúa Giê-su phục sinh hoàn toàn tự do để hiện ra như Người muốn: dưới hình dạng một người làm vườn570 hoặc “dưới một hình dạng khác” (Mc 16,12), không giống hình dạng các môn đệ đã quen, chính là để khơi dậy đức tin của các ông.571

646934, 549

Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô không phải là việc trở lại với cuộc sống trần thế, giống như trường hợp của những kẻ Người đã cho sống lại trước cuộc Vượt Qua: con gái ông Giairô, người thanh niên Naim, anh Lazarô. Các sự kiện này là những biến cố kỳ diệu, nhưng những người được hưởng phép lạ đó, nhờ quyền năng của Chúa Giê-su, chỉ trở lại với cuộc sống trần thế “thông thường.” Một lúc nào đó họ sẽ lại chết. Sự phục sinh của Đức Ki-tô thì hoàn toàn khác hẳn. Trong thân thể phục sinh của Người, Người chuyển từ trạng thái phải chết sang một sự sống khác vượt trên thời gian và không gian. Thân thể của Chúa Giê-su trong sự Phục Sinh đầy tràn quyền năng của Chúa Thánh Thần; thân thể này tham dự vào sự sống thần linh trong trạng thái vinh quang của Người, đến độ thánh Phao-lô đã có thể nói Đức Ki-tô là một người thiên giới.572

Sự Phục Sinh xét như một biến cố siêu việt (647)

6471000

Thánh thi Exultet trong đêm Canh thức Vượt Qua hát: “Ôi! Đêm thật diễm phúc, đêm duy nhất biết được thời giờ Đức Ki-tô từ cõi chết phục sinh.”573 Thật vậy, không ai chứng kiến tận mắt chính biến cố Phục Sinh và không một tác giả sách Tin Mừng nào mô tả biến cố đó. Không ai có thể nói sự Phục Sinh đã xảy ra về mặt thể lý như thế nào. Bản chất thâm sâu nhất của biến cố đó, tức là sự chuyển qua một cuộc sống khác, lại càng khó nhận biết bằng giác quan. Sự Phục Sinh, một biến cố lịch sử có thể được xác nhận bằng dấu chỉ là ngôi mộ trống và bằng thực tại là những lần gặp gỡ của các Tông Đồ với Đức Ki-tô phục sinh, vẫn mãi nằm trong trung tâm của mầu nhiệm đức tin, vì biến cố đó siêu việt và vượt hẳn trên lịch sử. Chính vì vậy, Đức Ki-tô phục sinh không tỏ mình ra cho thế gian,574 nhưng cho các môn đệ của Người, “những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân” (Cv 13,31).

II. Sự Phục Sinh – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (648-650)

648258, 989, 663, 445, 272

Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch sử. Trong biến cố này, Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng hoạt động chung, vừa biểu lộ tính cách riêng biệt của mỗi Ngôi. Sự Phục Sinh được thực hiện do quyền năng của Chúa Cha, Đấng “đã làm sống lại” (Cv 2,24) Đức Ki-tô, Con của Ngài, và bằng cách đó, Chúa Cha đưa nhân tính của Người, cùng với thân thể của Người, vào Ba Ngôi một cách hoàn hảo. Chúa Giê-su được mặc khải một cách vĩnh viễn là “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1,4). Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa biểu lộ quyền năng575 qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho nhân tính đã chết của Chúa Giê-su được sống lại và kêu gọi nhân tính đó vào trạng thái vinh hiển của Chúa.

649

Về phần Chúa Con, Người thực hiện việc Phục Sinh của chính mình bằng sức mạnh của quyền năng thần linh của mình. Chúa Giê-su loan báo rằng Con Người sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết rồi sống lại (động từ với nghĩa chủ động576 ). Nơi khác, Người xác quyết cách minh nhiên: “Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại… Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,17-18). “Chúng ta tin rằng Chúa Giê-su đã chết và đã sống lại” (1 Tx 4,14).

650626, 1005

Các Giáo phụ chiêm ngắm sự Phục Sinh, khởi từ Ngôi Vị thần linh của Đức Ki-tô, Ngôi Vị này vẫn kết hợp với linh hồn Người và thân thể Người, khi hai phần đã bị tách biệt bởi cái chết: “Nhờ sự duy nhất của bản tính Thiên Chúa hiện diện ở cả hai phần của con người, nên hai phần bị chia lìa và tách biệt, lại được tái hợp và liên kết với nhau. Như vậy, sự chết là do sự tách rời những phần vốn kết hợp, còn sự Phục Sinh là do sự kết hợp các phần bị tách rời.”577

III. Ý nghĩa và ảnh hưởng cứu độ của sự Phục Sinh (651-655)

651129, 274

“Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). Trước hết, sự Phục Sinh tạo nên việc xác nhận tất cả những gì chính Đức Ki-tô đã làm và đã giảng dạy. Tất cả các chân lý, kể cả những chân lý mà tâm trí nhân loại không thể đạt tới, đều được biện minh, một khi Đức Ki-tô phục sinh đưa ra lý chứng tối hậu, mà Người đã hứa, về thẩm quyền thần linh của Người.

652994, 601

Sự phục sinh của Đức Ki-tô là việc hoàn thành những lời hứa của Cựu Ước578 và của chính Chúa Giê-su trong cuộc đời trần thế của Người.579 Kiểu nói “đúng như lời Thánh Kinh”580 nêu rõ rằng sự phục sinh của Đức Ki-tô đã hoàn thành các lời tiên báo này.

653445, 461, 422

Chân lý về thần tính của Chúa Giê-su được xác nhận bằng sự phục sinh của Người. Người đã nói: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Sự phục sinh của Đấng bị đóng đinh chứng minh rằng Người thật sự là “Đấng Hằng Hữu”, là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã có thể tuyên bố với người Do-thái: “Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Chúa Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh thứ hai: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Cv 13,32-33).581 Sự Phục Sinh của Đức Ki-tô được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Sự phục sinh là việc hoàn thành mầu nhiệm này theo kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa.

6541987, 1996

Trong mầu nhiệm Vượt Qua có hai khía cạnh: Đức Ki-tô, nhờ sự Chết của Người, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường cho chúng ta tiến vào cuộc sống mới. Trước hết, đây là sự công chính hóa, phục hồi chúng ta trong ân sủng của Thiên Chúa,582 để “cũng như Đức Ki-tô đã được sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Đời sống mới này cốt tại việc chiến thắng cái chết của tội lỗi, và việc tham dự mới vào ân sủng.583 Đời sống mới hoàn thành ơn được làm nghĩa tử, bởi vì người ta trở thành anh em của Đức Ki-tô, như chính Chúa Giê-su gọi các môn đệ Người sau cuộc phục sinh của Người: “Về báo cho anh em của Thầy” (Mt 28,10).584 Anh em đây không phải do bản tính, nhưng do hồng ân của ân sủng, bởi vì ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta thật sự thông phần vào sự sống của Người Con Một, sự sống đó đã được mặc khải trọn vẹn trong sự Phục Sinh của Người.

655989, 1002

Cuối cùng, sự phục sinh của Đức Ki-tô – và chính Đức Ki-tô phục sinh – là nguyên lý và nguồn mạch cho chúng ta ngày sau được sống lại: “Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15,20-22). Trong khi mong đợi việc hoàn thành này, Đức Ki-tô phục sinh sống trong trái tim các tín hữu của Người. Nơi Người, các Ki-tô hữu được nếm “những sức mạnh của thế giới tương lai” (Dt 6,5) và đời sống của họ được Đức Ki-tô lôi cuốn vào trong lòng đời sống thần linh,585 “để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5,15).

Tóm lược (656-658)

656

Đức tin vào sự phục sinh có đối tượng là một biến cố, vừa được xác nhận theo lịch sử bằng lời chứng của các môn đệ, những người đã thật sự gặp Đấng Phục Sinh, đồng thời vừa có tính siêu việt một cách bí nhiệm, xét như là việc nhân tính của Đức Ki-tô tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa.

657

Ngôi mộ trống và những băng vải xếp ở đó tự chúng nói lên rằng, thân thể của Đức Ki-tô, nhờ quyền năng của Thiên Chúa, đã thoát khỏi xiềng xích của sự chết và sự hư nát. Những dấu chỉ đó chuẩn bị các môn đệ để họ gặp gỡ Đấng Phục Sinh.

658

Đức Ki-tô, “trưởng tử trong số những người từ cõi chết” (Cl 1,18), là nguyên lý của sự sống lại của chính chúng ta, ngay bây giờ nhờ sự công chính hóa linh hồn chúng ta,586 và sau này nhờ sự làm cho thân thể chúng ta được sống.587


Chú thích

542 Phụng vụ Byznatin, Troparium in die Paschatis: Pentekostarion (Romae 1884) 6.

543 X. Cv 9,3-18.

544 X. Ga 20,13; Mt 28,11-15.

545 X. Lc 24,3.22-23.

546 X. Lc 24,12.

547 X. Ga 20,8.

548 X. Ga 20,5-7.

549 X. Ga 11,44.

550 X. Mc 16,1; Lc 24,1.

551 X. Ga 19,31.42.

552 Mt 28,9-10; Ga 20,11-18.

553 X. Lc 24,9-10.

554 X. 1 Cr 15,5.

555 X. Lc 22,31-32.

556 X. Cv 1,22.

557 X. 1 Cr 15,4-8.

558 X. Lc 22,31-32.

559 X. Ga 20,19.

560 X. Mc 16,11.13.

561 X. Lc 24,38.

562 X. Lc 24,39.

563 X. Ga 20,24-27.

564 X. Lc 24,39; Ga 20,27.

565 X. Lc 24,30.41-43; Ga 21,9.13-15.

566 X. Lc 24,39.

567 X. Lc 24,40; Ga 20,20.27.

568 X. Mt 28,9.16-17; Lc 24,15.36; Ga 20,14.19.26; 21,4.

569 X. Ga 20,17.

570 X. Ga 20,14-15.

571 X. Ga 20,14.16; 21,4.7.

572 X. 1 Cr 15,35-50.

573 Canh thức Vượt qua, Công bố Tin Mừng Phục Sinh (“Exsultet”): Sách Lễ Rô-ma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 272.

574 X. Ga 14,22.

575 X. Rm 6,4; 2 Cr 13,4; Pl 3,10; Ep 1,19-22; Dt 7,16.

576 X. Mc 8,31; 9,9.31; 10,34.

577 Thánh Grêgôriô thành Nyssa, De tridui inter mortem et ressurectionem Domini nostri Iesu Christi spatio: Gregorii Nysseni opera, ed. W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 9 (Leiden 1967) 293-294 (PG 46,417); x. Statuta Ecclesiae Antiqua: DS 325; ĐGH Anastasiô II, Thư In prolixitate epistulae: DS 359; Thánh Hormidas, Thư Inter ea quae: DS 369; CĐ Tôlêđô XI : DS 539.

578 X. Lc 24,26-27.44-48.

579 X. Mt 28,6; Mc 16,7; Lc 24,6-7.

580 X. 1 Cr 15,3-4; Tín biểu Ni-xê-a – Constantinôpôli: DS 150.

581 X. Tv 2,7.

582 X. Rm 4,25.

583 X. Ep 2,4-5; 1 Pr 1,3.

584 X. Ga 20,17.

585 X. Cl 3,1-3.

586 X. Rm 6,4.

Scroll to Top