3. NGÀY PHỤC SINH
Ngôi mộ trống
1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”
3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ.4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước.5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó,7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.10 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
Đức Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la
11 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ,12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.13 Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su.15 Đức Giê-su nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.”16 Đức Giê-su gọi bà: “Ma-ri-a!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: “Ráp-bu-ni!” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’).17 Đức Giê-su bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.’”18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.21 Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.25 Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.”27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”28 Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”29 Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
4. KẾT LUẬN THỨ NHẤT
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-11
Mt 28,16-20; Mc 16,14-18; Lc 24,36-39
a. Phần này gồm 3 đoạn chính: 1. ngôi mộ trống (20,1-10); 2. Đức Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (20,11-18); 3. Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ (20,19-29).
b. Ba nhân vật nằm trong trình thuật ngôi mộ trống (20,1-10): bà Ma-ri-a Mác-đa-la, ông Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến.
Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét ở phía Tây. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la này đã bị 7 quỷ ám (x. Lc 8,2), không phải là người phụ nữ tội lỗi nói trong Lc 7,37-48. Bà là một trong những người đầu tiên đã đi tới ngôi mộ trống (Ga 20,1 – x. Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25 – x. Mt 27,56; Mc 15,40) và dự cuộc mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
c. Ngôi mộ trống không phải là một bằng chứng về sự sống lại của Đức Giê-su, một sự kiện làm nền tảng cho lòng tin vào mầu nhiệm đó, vì ngôi mộ trống có thể có một ý nghĩa khác (ngôi mộ trống có thể là hiệu quả của việc lấy trộm xác: Ga 20,2.13.15; Mt 27,64; 28,11-15), mặc dầu lấy trộm xác mà vẫn để y nguyên đồ liệm (các băng vải, khăn che đầu) là chuyện rất khó hiểu! Ngôi mộ trống và đồ liệm chỉ là những dấu hiệu. Khác với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người môn đệ chỉ nhìn thấy những dấu hiệu mà đã tin vào sự sống lại của Đức Giê-su, tuy chưa hiểu lời Kinh Thánh (Tv 16,10; Hs 6,2...) tiên báo mầu nhiệm này (x. Ga 20,9).
d. Câu này rất khó giải thích. Xin đề nghị cách hiểu sau đây: Thân xác sống lại của Đức Giê-su được tôn vinh ngay khi Người trỗi dậy từ cõi chết (x. Lc 24,51). Tuy thế, Đức Giê-su còn hiện ra với các Tông Đồ, các môn đệ và những người khác trong thời gian gọi là bốn mươi ngày, để tiếp xúc, sinh hoạt với họ, để bổ túc công việc dạy dỗ các Tông Đồ (x. Cv 1,3). Biến cố thăng thiên hữu hình (Cv 1,3) sẽ kết thúc giai đoạn đó. Trong thời gian giới hạn ấy, bà Ma-ri-a cần phải đi báo tin cho các môn đệ của Người (Ga 20,17b) hơn là giữ Người lại lâu hơn, tỏ lòng quý mến, gắn bó với Người bằng những cử chỉ tôn kính và thân mật. Cũng trong thời gian giới hạn ấy, Đức Giê-su cần phải tranh thủ để tiếp tục huấn luyện, dạy dỗ các môn đệ trước khi Người không còn công khai hiện ra với các ông, hơn là nhận những cử chỉ tôn kính và quý mến của bà.
đ. Đức Ki-tô sống lại đem lại bình an (20,19.21), niềm vui (20,20) cho các môn đệ. Đức Ki-tô sống lại cũng sai các môn đệ đi; như thế, sứ mạng của các ông phát xuất từ biến cố phục sinh (cũng x. Mt 28,18-20; Mc 16,15-18.20; Lc 24,46-48; Cv 1,7-8). Nhưng Ga đặt sứ mạng này trong một diễn tiến liên tục với sứ mạng của Đức Giê-su bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha: Chúa Cha sai Đức Giê-su; Đức Giê-su cũng sai các môn đệ (x. Ga 17,18). Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người (St 2,7; x. Ed 37,5.9) và ban sự sống. Nay, Đức Ki-tô sống lại cũng thổi Thần Khí (thổi hơi: 20,22) vào các môn đệ. Các ông nhận lấy Thánh Thần của Người để lại thông quyền năng gây sự sống của Thánh Thần cho những ai sẽ tin vào Người nhờ sứ mạng của các ông. Đó là công cuộc tạo thành mới do Đức Ki-tô sống lại thực hiện nhờ Thánh Thần, trong và qua các môn đệ.
e. Đức Giê-su được ông Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (1,29). Sứ mạng của Đức Giê-su nhắm mục tiêu xóa bỏ tội lỗi, ban ơn tha tội. Các môn đệ sẽ tiếp tục sứ mạng của Đức Giê-su là sứ mạng ban ơn tha tội. Quyền năng mà các ông lãnh nhận, được liên kết với Thánh Thần là Đấng thanh luyện và ban sự sống (x. Ed 36,25-27; 37,3-6).
g. Ba Tin Mừng Nhất Lãm cũng nói: có một số môn đệ còn hoài nghi về sự sống lại của Đức Giê-su (Mt 28,17; Mc 16,11.13.14; Lc 24,37-41).
h. Dùng tước hiệu Thiên Chúa cho Đức Giê-su: đây là trường hợp duy nhất trong các sách Tin Mừng. Có thể câu này dội lại một lời tung hô trong Phụng Vụ.
Lời tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa ở đây trong phần cuối của Ga (20,28) đối chiếu với Ngôi Lời là Thiên Chúa ở câu đầu (1,1).
i. Từ nay trở đi, đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức Giê-su phục sinh hiện ra, nhưng trên lời chứng của các Tông Đồ là những người đã thấy.
k. Ga 20,30-31 là đoạn kết sách Tin Mừng IV. Trong c. 31, tác giả nói đến mục đích của cuốn sách này. Ga nhắm mục tiêu giúp các độc giả (Ki-tô hữu hoặc chưa là Ki-tô hữu) tin vào Đức Giê-su với hai tư cách: a/ Đấng Mê-si-a, Đấng chịu xức dầu đến trần gian nhằm đáp lại lòng trông đợi của dân Ít-ra-en và thực hiện công trình cứu độ với tư cách là Ngôn Sứ, Tư Tế và Quân Vương; b/ Con Thiên Chúa đến trần gian từ Thiên Chúa Cha, có một tương quan đặc biệt mật thiết với Người. Ga cũng nhằm tạo điều kiện cho các độc giả tin hoặc tin mạnh hơn; nhờ thế, họ nhận được sự sống đời đời.