Kinh “Lạy Cha”
1 Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.”2 Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
‘Lạy Cha,
xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều Đại Cha mau đến,
3 xin Cha cho chúng con
ngày nào có lương thực ngày ấy;
4 xin tha tội cho chúng con,
vì chính chúng con cũng tha
cho mọi người mắc lỗi với chúng con,
và xin đừng để chúng con
sa chước cám dỗ.’”
Người bạn quấy rầy
5 Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh,6 vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’;7 mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’?8 Thầy nói cho anh em biết: Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.
Cứ xin thì sẽ được
9 “Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.11 Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó?12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp?13 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đức Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun
14 Bấy giờ Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên.15 Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.”16 Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời.17 Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia.18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?... bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông.20 Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.21 Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn.22 Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
Không theo Đức Giê-su là chống lại Người
23 “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.
Quỷ phản công
24 “Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: ‘Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.’25 Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi.26 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước.”
Thế nào là hạnh phúc thật
27 Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”28 Nhưng Người đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”
Dấu lạ ngôn sứ Giô-na
29 Khi dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.31 Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.32 Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.
Hai lời nói về đèn
33 “Chẳng có ai đốt đèn lên rồi đặt vào chỗ khuất hoặc dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.
34 “Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối.35 Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối.36 Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn tỏa sáng chiếu soi anh.”
Đức Giê-su khiển trách các người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật
37 Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn.38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn.39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: “Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.40 Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao?41 Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.42 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ.43 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng.44 Khốn cho các người! Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”
45 Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa!”46 Đức Giê-su nói: “Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.
47 “Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy!48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.
49 “Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia.50 Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa,51 từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.
52 “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”
53 Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện,54 gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.
Lc 11,29; Mt 16,1; Mc 8,11
Lc 8,16; Mt 5,15; Mc 4,21
Lc 20,46; Mt 23,6-7; Mc 12,38-39
b. Theo lối của Mt 6,5-15, Lc gom lại trong cc. 1-13 nhiều huấn từ về cầu nguyện: khuôn mẫu cầu nguyện, một dụ ngôn về lời kêu cầu hữu hiệu và một lời khuyến khích lòng tin tưởng nơi Cha trên trời.
d. Lc đã gợi nhớ việc này ở 5,33.
đ. Mẫu kinh trong Lc, ngắn hơn, có những khác biệt được trình bày trong các chú thích tiếp theo đây.
e. Lời xưng hô mở đầu đơn giản hơn trong Mt, còn thấy ở đầu các lời cầu nguyện khác của Đức Giê-su (x. Lc 22,42; 23,34.46). X. 10,21.
g. ds: nguyện danh Cha được thánh hóa, phải hiểu là xin cho danh Cha được nhìn nhận là thánh, vì Cha là Đấng Thánh.
h. Từ Triều Đại: x. 1,33+. Ở đây, nhiều cổ bản chép: Triều Đại Cha mau đến với chúng con. Một số bản đến sau lại sửa câu trên hoặc câu này: Xin gửi Thánh Thần Cha trên chúng con và tẩy sạch chúng con. Có thể các câu này được đưa vào trong bản Lc sau, do ảnh hưởng của một nghi thức thánh tẩy.
i. X. Mt 6,11+. Khác với Mt, Lc xin lương thực hằng ngày, vì coi đời sống Ki-tô hữu là một chuỗi thời gian dài, như ở 9,23+. Đây là kiểu suy nghĩ của người Hy-lạp.
l. Lc đổi chữ nợ (như trong bản Mt song song) thành chữ tội, nhưng giữ nó lại trong phần thứ hai của lời cầu xin. Lc cũng sẽ làm như vậy ở 13,2 và 4.
m. ds: cho bất cứ ai mắc nợ chúng con. Xét kỹ các thì động từ trong bản Hy-lạp Mt và Lc, sẽ thấy điểm khác biệt giữa hai bản văn: theo Mt, phải tha thứ trước khi cầu nguyện; còn theo Lc, phải tha thứ suốt đời (xem chú thích câu trước).
n. Lc không ghi lại phần thứ hai của lời cầu xin như Mt, nhưng vẫn quy cho Xa-tan các chước cám dỗ (4,2-3; 8,12-13; x. 22,31).
o. Nhiều bản chú giải ghi rằng có nét tương tự giữa dụ ngôn này và dụ ngôn quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy. Xem chú thích p) ở dưới. Hơn nữa, từ Hy-lạp anaideia cũng có nghĩa là sự mất thể diện (xét theo truyền thống hiếu khách đông phương và tình bạn), nên nếu xếp dụ ngôn này song song với 18,1-5 thì có phần gượng ép hoặc là quá dễ dãi.
p. Lc thường mở đầu dụ ngôn bằng một câu hỏi. Cách thức này thích hợp với lối sư phạm của Đức Giê-su.
q. Cứ đứng lì ra đó: từ Hy-lạp ở đây còn tồn nghi, thường được dịch như thế do ảnh hưởng của 18,1-8 (dụ ngôn quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy). Thật ra, đoạn này nằm trong phần Lc gồm ba đoạn 11,1-13, đều đặt trọng tâm ở ý tưởng “hễ xin là được”, chứ không ở lời khuyên “kiên trì cầu nguyện” như trong 18,1-8 (cứ đứng lì ra đó). Bởi thế, từ Hy-lạp đây còn hiểu được là vì (sợ mất) thể diện, tương hợp với mạch ý hơn, và có thể diễn nghĩa như sau. Trong dụ ngôn này có ba nhân vật: người bạn lỡ đường (A), ghé lại nhà bạn mình (B: ai trong anh em), người này đi cầu cứu bạn mình đã vào giường ngủ (C). B sẽ mất thể diện nếu không có gì để tiếp đãi A, hoặc nếu bị C từ chối giúp đỡ; hoặc chính C mất thể diện nếu không biết giúp đỡ tha nhân theo truyền thống hiếu khách mà cha ông để lại (cho dù không biết nể tình bạn). Hiểu như vậy, đoạn này chuẩn bị rất tốt cho đoạn 9-13 tiếp theo, và càng làm nổi bật hơn thái độ của Thiên Chúa, là Đấng Công Chính và là Cha trên trời.
r. Phần sau của các câu khẳng định không có chủ từ, ở dạng thụ động trong bản văn Hy-lạp, là một cách kín đáo cho biết tác nhân là chính Thiên Chúa.
s. Nhiều bản thêm vào đây cái bánh, mà lại cho hòn đá, có lẽ theo Mt 7,9.
t. Tính từ xấu là một từ cần thiết về mặt văn chương, đối lập với tốt lành, chứ không nói lên một sự đánh giá về mặt đạo đức.
u. Một vài bản có giá trị chép: Cha sẽ ban cõi trời.
v. Mt 7,11 nói của tốt lành; Lc nói Thánh Thần, là ân huệ tuyệt hảo mà trong sách Công Vụ, Lc thường ghi là được Chúa ban tặng.
x. Cũng có thể dịch: cho những kẻ cầu xin Người.
y. Mt 12,22 và 9,32 nói đến người câm tự bẩm sinh, còn Lc thì nói bệnh câm là do quỷ câm.
b. Trời là cách nói của người Do-thái để chỉ Thiên Chúa mà không phạm húy, như nhiều chỗ khác trong Kinh Thánh. Đặc biệt câu này chuẩn bị cho 11,29-36.
c. Lc nghĩ đến những tòa nhà sụp đổ; bản văn Mt 12,25 song song có nghĩa là gia đình.
d. Con cái: ở Mt là đồ đệ người Pha-ri-sêu, ở Lc là người Do-thái nói chung.
đ. Đồ đệ người Pha-ri-sêu cũng trừ quỷ, nên cũng có thể lên án thầy của họ đang lăng mạ Đức Giê-su. Trong Cv 19,13, Lc ghi lại các vụ trừ quỷ do người Do-thái thực hiện.
e. Hình ảnh này có thể rút từ Xh 8,15. Và do đối chiếu câu này của Lc với Mt 12,28 mà phụng vụ đã gọi Chúa Thánh Thần là ngón tay thần diệu (của tay hữu) của Chúa Cha.
g. Đức Giê-su đảo lộn lập luận của người Do-thái: bằng cách trừ quỷ, Đức Giê-su đã khai mở kỷ nguyên của Triều Đại Thiên Chúa; bằng chính hành động của Đức Giê-su, sự thống trị của Xa-tan phải khánh tận.
h. Ở đây chỉ có Lc nói đến người mạnh thế hơn. Ông Gio-an Tẩy Giả dùng danh xưng này để nói về Đấng Mê-si-a ở 3,16.
i. Câu này (song song với Mt 12,30), nghiêm khắc hơn 9,50 (song song với Mc 9,40). Sự nghiêm khắc này là do bối cảnh tranh luận đang sôi nổi.
k. Phân tán: lối nói này ngược lại với thái độ của người mục tử, tượng trưng cho chính thái độ của Thiên Chúa.
l. Đức Giê-su dùng các hình ảnh quen thuộc trong Do-thái giáo thời bấy giờ để diễn tả số phận đáng thương của người lại bị rơi vào tay Xa-tan, sau khi đã được giải thoát. Đức Giê-su xác tín Người đã chiến thắng được Xa-tan, nên không coi tình trạng đó là định mệnh (x. 10,18; 11,20), nhưng Người cũng cảnh cáo những ai mới đi theo Người về nguy cơ có thể đe dọa họ. Mt 12,43-45 áp dụng câu này cho thế hệ gian ác này.
o. ds: Phúc thay lòng mẹ đã cưu mang Thầy và vú mẹ đã cho Thầy bú.
p. Câu nói này là của riêng Lc và lấy lại ý của 8,21. Đức Giê-su coi trọng liên hệ đức tin hơn liên hệ huyết nhục, và nói đến tất cả những ai đã tin vào Người. Câu này không phải để phê bình Đức Ma-ri-a, vì Lu-ca đã cho thấy Mẹ là người đã tin (1,45), cứ suy đi nghĩ lại trong lòng biến cố Đức Giê-su (2,19).
q. Họ đã xin Đức Giê-su một dấu lạ (c. 16), vì họ quan niệm dấu lạ phải giống như những kỳ công Thiên Chúa đã làm thời xuất hành và thời ngôn sứ Ê-li-a. Đức Giê-su từ chối, không làm những dấu lạ kiểu ấy: chính Người mới là dấu lạ tuyệt hảo, tự bản thân Người (c. 30) và qua lời rao giảng của Người (c. 32). Người so sánh thái độ của những kẻ nghe mà không tin với thái độ của dân ngoại thời xưa đã nghe và tin theo lời của vua Sa-lô-môn và ngôn sứ Giô-na.
r. Câu này hơi nghịch lý (Mc 8,12 còn nói không được một dấu lạ nào cả) sau tất cả những phép lạ mà chính Đức Giê-su cũng đã tuyên bố là những dấu hiệu (x. 7,22; 11,20). Thật ra, tất cả những dấu lạ đó cho thấy một dấu hiệu duy nhất: đó là chính con người và hành động của Đức Giê-su.
s. C. 32 giải thích tại sao nói ông Giô-na là một dấu lạ: ông đã loan báo cuộc Phán Xét và kêu gọi dân sám hối (x. Gn 3,2-5). Vai trò làm dấu hiệu của Con Người cũng phải được hiểu như vậy. Đó có thể là ý nghĩa nguyên thủy của những lời trong đoạn này. Nhưng Lc đã được soạn sau biến cố Phục Sinh, nên tác giả chắc chắn đã hiểu biến cố này là dấu tuyệt hảo chỉ con người Đức Giê-su (Con Người sẽ là, động từ ở thì tương lai). Mt 12,40 còn đi xa hơn nữa khi đối chiếu ba ngày trong bụng kình ngư và ba ngày trong lòng đất: ba ngày trên là tiền ảnh của ba ngày dưới.
t. Trong Mt, câu này đi sau c. 32, và có thể đó là vị trí nguyên thủy, bởi nó nêu gương nữ hoàng phương Nam, trong khi các câu khác nói về dấu lạ ông Giô-na. Dù sao, đây cũng là một cách nối liền những câu vốn tách rời nhau; và có lẽ Lc đảo lộn thứ tự hai câu nhằm kết thúc đoạn này bằng cách nói đến sự sám hối, hậu quả của việc loan báo Tin Mừng.
u. Trong Kinh Thánh, vua Sa-lô-môn là người khôn ngoan tuyệt hảo (x. 1 V 3; 5,9-14). Mà Đức Giê-su còn khôn ngoan hơn nhà vua nữa: Lc đã đặc biệt ghi lại sự khôn ngoan của Đức Giê-su (x. 2,40.52; 21,15), và ở 19,35-38, Lc sẽ tả biến cố Đức Giê-su đi vào thành Giê-ru-sa-lem với những điểm tương tự bài trình thuật về cuộc phong vương của vua Sa-lô-môn (x. 1 V 1,38-40).
x. Ông Gio-an Tẩy Giả còn hơn cả ngôn sứ do vai trò có giá trị cánh chung của ông (x. 7,26-27); mà Đức Giê-su còn hơn như vậy nữa.
y. Trong văn cảnh Lc đưa Đức Giê-su ra như một dấu hiệu, cc. 33-36 mời gọi phải có một tâm trí sáng suốt để nhận ra dấu hiệu ấy, nghĩa là để tin.
a. Một số bản không có dưới cái thùng. Phần này có thể là theo Mt 5,15 hoặc Mc 4,21. Trong Lc, câu này trùng với 8,16 và được dùng ở đây để dẫn nhập vào đoạn 34-36 tiếp theo, nhờ chữ nối là đèn.
b. Con mắt được sánh với cái đèn vì nó cho phép thấy đường đi. Nhưng nó có thể sáng, có thể mờ.
c. ds: đơn sơ; tính từ này chỉ thấy ở đây và ở Mt 6,22, phản nghĩa với xấu. Đơn sơ hàm ý nguyên vẹn, tinh tuyền, không bệnh hoạn, không sai lệch. Ý niệm đơn sơ này được nhắc tới nhiều trong Cựu Ước, các bản văn ráp-bi Do-thái và các thư thánh Phao-lô.
d. Cc. 35-36 đã chịu nhiều đợt “tam sao thất bản”, nhưng ý chính của ngôn từ vẫn còn rõ ràng: thông điệp của Đức Giê-su thì minh bạch, ai cũng có thể đọc ra, chỉ cần có con mắt tâm linh lành mạnh, trong sáng.
đ. Hình ảnh này cho ta bài học: mắt không được tối, nghĩa là lòng không được cứng tin, mới có thể nhận ra Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ.
e. Câu điệp ý này là một lối chơi chữ, dùng hai nghĩa của chữ sáng, hiểu như sau: nếu anh mở rộng lòng đón ánh sáng, thì anh sẽ chìm ngập trong ánh sáng.
g. Phần lớn các yếu tố của đoạn này đều có trong Mt 23, nhằm nói với các người Pha-ri-sêu và kinh sư. Lc thì phân biệt phần khiển trách người Pha-ri-sêu (x. cc. 39-44), rồi đến phần khiển trách các nhà thông luật (x. cc. 46-52).
i. Các nghi thức tẩy rửa này được các bậc thầy Do-thái cho là thật quan trọng (x. Mc 7,3-4). Đức Giê-su bãi bỏ (x. Mt 15,20), và môn đệ Người không tuân giữ (x. Mt 15,2; Mc 7,2-5).
k. Theo Lc, Đức Giê-su chống lại thói đạo đức bề ngoài và chiếu lệ của nhóm Pha-ri-sêu, Người coi lòng sùng đạo chân thành tự thâm tâm là yêu sách hàng đầu của Thiên Chúa (x. 16,15). Về tâm hồn hoặc lòng, x. 6,45; 10,27; 12,34; 21,3; 24,25.
l. Câu này là riêng của Lc và giải nghĩa tại sao Thiên Chúa không thể hài lòng với một lối thờ phượng hình thức và chỉ dựa vào Lề Luật.
m. Đề tài này được tác giả Lu-ca ưa thích đặc biệt và chỉ có ông đưa ra ở đây cũng như ở nhiều chỗ khác trong Lc và Cv. Vậy rất có thể là chính tác giả đã thay đổi Mt 23,26.
n. Một vài cổ bản dịch: những gì các người có. Câu này tối nghĩa.
o. Nhiều cổ bản không chép câu cuối này, có lẽ vì không chấp nhận các tập quán trong Luật cũ.
p. Mt 23,27 cho thấy nét tương phản rõ rệt giữa vẻ đẹp bên ngoài với cái xấu xa bên trong các mồ mả. Lc lại nhấn mạnh đến thái độ bưng bít của người Pha-ri-sêu. Nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng của họ (16,15).
q. X. 7,30+. Ở đây, người thông luật tỏ tình liên đới với người Pha-ri-sêu tuy vẫn tự cho là khác biệt. Đức Giê-su sẽ nêu rõ sự khác biệt đó khi Người khiển trách họ trong tư cách họ là những nhà mô phạm và lãnh đạo tinh thần của Do-thái giáo.
r. Gánh nặng là một từ của Do-thái giáo chỉ toàn bộ luật lệ mà các nhà thông luật có trách nhiệm bảo vệ.
s. Câu mỉa mai. Khi xây lăng tẩm cho các ngôn sứ, các người thông luật tưởng chuộc được tội của cha ông họ; thật ra họ cũng đang có những thái độ giống y như cha ông.
t. Ở Mt 23,34, chính Đức Giê-su báo trước Người sẽ gửi các ngôn sứ. Trong Lc, chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nghĩa là chính Thiên Chúa, sẽ gửi các ngài; và có thể đây là một công thức đã được dùng từ đầu (x. 7,35+). Một quyển sách của Do-thái giáo cũng đã dùng công thức này.
u. Mt 23,34 nói hiền nhân và kinh sư, còn Lc nói Tông Đồ: Lc hẳn muốn nói về những vị được sai đi rao giảng Tin Mừng mà người hay nhắc tới (x. 6,13+).
x. Lc là bản độc nhất lấy lại cách nói này của bản Cựu Ước Hy-lạp (x. St 9,5; 42,22; 2 Sm 4,11; Tv 9,13; Ed 33,6-8). Đây là cách định nghĩa việc Thiên Chúa xử tội giết người.
y. ds: và nhà (của Thiên Chúa). Trong Cựu Ước Híp-ri, vụ sát hại A-ben và vụ sát hại ngôn sứ Da-ca-ri-a được ghi ở đầu và ở cuối sách. Vậy có thể hiểu đó là toàn bộ các tội giết người trong lịch sử thánh –không kể đến các vị tử đạo thời kỳ Ma-ca-bê sau đó, mà bản Cựu Ước Hy-lạp đã ghi danh. Quan điểm ở đây giới hạn ở xứ Pa-lét-tin.
a. Quan niệm “cha ăn mặn, con khát nước” này rút từ Kinh Thánh, và ở đây là đương nhiên, vì chính các người đương thời tỏ ra đồng lõa với tổ tiên (x. cc. 47-48).
b. Vài cổ bản chép: lấy mất.
c. Mt 23,13 trách các kinh sư và người Pha-ri-sêu đã khóa cửa Nước Trời, Lc thì trách các nhà thông luật cất giấu chìa khóa sự hiểu biết. Đối với Lc, sự hiểu biết là con đường dẫn tới Nước Trời.
d. Nhiều bản ghi nhà thông luật với hoặc thay các kinh sư.