Đời sống nội tâm của người Kitô hữu giả thiết tình trạng ân sủng trái ngược với tình trạng tội trọng. Trong kế hoạch quan phòng hiện tại của Thiên Chúa, mọi linh hồn đều hoặc ở trong tình trạng ân sủng, hoặc ở trong tình trạng tội trọng; hay nói cách khác, mọi linh hồn đều hoặc hướng về Thiên Chúa, Đấng là cùng đích siêu nhiên của mình, hoặc quay lưng lại với Người. Cũng không có ai ở trong tình trạng hoàn toàn tự nhiên, vì tất cả đều được kêu gọi hướng tới mục đích siêu nhiên hệ tại thị kiến trực tiếp về Thiên Chúa và tình yêu phát sinh từ thị kiến này. Ngay khi được tạo dựng, con người đã được ấn định cho mục đích tối cao như vậy. Đó cũng chính là mục đích mà Chúa Kitô, Đấng sau khi nguyên tổ sa ngã, đã hiến dâng chính mình làm của lễ để cứu độ toàn thể nhân loại, dẫn dắt chúng ta hướng tới.
Để có một đời sống nội tâm đích thực, việc sống trong tình trạng ân sủng như của một em nhỏ sau khi được rửa tội hay của mỗi hối nhân sau khi được giải tội chắc chắn là chưa đủ. Xa hơn thế, đời sống nội tâm còn đòi hỏi một cuộc chiến đấu nhằm chống lại mọi thứ khiến chúng ta có thể sa ngã tội trở lại, một khuynh hướng nghiêm túc của linh hồn hướng về Thiên Chúa. Nếu có một hiểu biết sâu sắc về tình trạng ân sủng, chúng ta sẽ thấy rằng nó không chỉ là nguyên lý của một đời sống nội tâm chân chính và rất thánh thiện, nhưng còn là mầm mống của đời sống vĩnh cửu. Chúng tôi nghĩ rằng việc nhấn mạnh vào điểm này ngay từ đầu là điều quan trọng, trong khi nhớ lại lời của Thánh Tôma: “Thiện ích của ân sủng nơi một người thì lớn hơn thiện ích của tự nhiên nơi toàn thể vũ trụ;”55 bởi lẽ ân sủng là mầm mống của đời sống vĩnh cửu và trổi vượt vô cùng so với đời sống tự nhiên của linh hồn chúng ta hay của các thiên thần.
Sự kiện này cho chúng ta thấy rõ nhất giá trị của ân sủng thánh hóa mà chúng ta đã lãnh nhận trong Bí tích rửa tội, cũng là thứ mà Bí tích giải tội sẽ phục hồi cho chúng ta nếu chúng ta chẳng may đánh mất nó.56
Giá trị của một hạt giống chỉ có thể được biết nếu chúng ta có một ý niệm nào đó về những gì sẽ nảy ra từ nó; chẳng hạn, trong trật tự tự nhiên, để biết giá trị của hạt giống chứa trong một quả sồi, chúng ta cần phải thấy một cây sồi đã phát triển hoàn chỉnh. Trong trật tự nhân loại, để biết giá trị của linh hồn có lý trí vẫn còn ngủ yên trong một em nhỏ, chúng ta phải biết được những khả năng bình thường của linh hồn nơi một người đã đạt tới sự phát triển đầy đủ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể biết giá trị của ân sủng thánh hóa, thứ hiện hữu trong tâm hồn mỗi trẻ sơ sinh đã chịu phép rửa tội và trong tất cả những người công chính, trừ khi chúng ta đã suy xét, ít là chưa đầy đủ, xem sự phát triển trọn vẹn của ân sủng này sẽ như thế nào trong đời sống vĩnh cửu. Hơn nữa, cần phải nhìn nhận điều đó dưới ánh sáng là lời của Đấng Cứu Độ, vì lời ấy là thần khí, là sự sống và sâu sắc hơn bất cứ lời chú giải nào. Ngôn ngữ của Tin Mừng, phong cách mà Chúa chúng ta sử dụng, dẫn chúng ta đến sự chiêm niệm trực tiếp hơn so với ngôn ngữ chuyên môn của thần học, cho dù là loại thần học vững chắc và cao siêu nhất. Quả không có gì bổ ích hơn việc hít thở không khí trong lành từ những đỉnh cao này, nơi tuôn chảy dòng nước hằng sống của giáo lý Kitô giáo.
Sự sống đời đời mà Đấng Cứu Độ đã hứa ban cho những người thiện chí
Cụm từ “sự sống đời đời” [hay đời sống vĩnh cửu] hiếm khi xuất hiện trong Cựu Ước, nơi mà phần thưởng dành cho người công chính sau khi chết thường được trình bày theo cách tượng trưng, chẳng hạn như hình ảnh Đất Hứa. Sự hiếm hoi của cụm từ này được hiểu dễ dàng hơn nếu chúng ta nhớ rằng sau khi chết, người công chính trong Cựu Ước còn phải chờ đợi Đấng Cứu Độ hoàn tất cuộc khổ nạn và sự hy sinh của Người trên thập giá để mở cửa Thiên đàng. Mọi điều trong Cựu Ước đều chủ yếu hướng tới sự giáng lâm của Đấng Cứu Độ đã được hứa ban.
Trong lời rao giảng của Chúa Giêsu, mọi sự đều hướng trực tiếp đến sự sống đời đời. Nếu chú ý đến lời Người, chúng ta sẽ thấy sự sống đời đời này khác biệt thế nào so với sự sống tương lai mà các triết gia lỗi lạc nhất, chẳng hạn như Plato, nói đến. Theo quan điểm của họ, sự sống tương lai thuộc về trật tự tự nhiên; họ cho rằng đó là “một sự mạo hiểm đáng để đánh cược”,57 mà không có sự chắc chắn tuyệt đối nào. Trái lại, Đấng Cứu Độ nói với sự chắc chắn tuyệt đối không chỉ về một sự sống tương lai, nhưng còn về một sự sống đời đời trổi vượt hơn quá khứ, hiện tại và tương lai; một sự sống hoàn toàn siêu nhiên, được đo lường bằng sự sống sâu thẳm nơi Thiên Chúa mà chính nó tham dự vào, qua một khoảnh khắc duy nhất của sự vĩnh cửu bất động.
Đức Kitô nói với chúng ta rằng con đường dẫn đến sự sống đời đời là con đường hẹp,58 và để đạt tới sự sống đó, chúng ta phải tránh xa tội lỗi và tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa.59 Trong nhiều dịp, Người đã nói trong sách Tin Mừng thứ tư rằng: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời,”60 nghĩa là, ai tin vào Tôi, Con Thiên Chúa, với một đức tin sống động được hiệp nhất với đức ái, với việc thực hành các điều răn, thì đã có sự sống đời đời bắt đầu nơi người ấy. Đức Kitô cũng khẳng định điều này trong tám mối phúc ngay khi Người bắt đầu rao giảng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ... Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng... Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.”61 Vậy sự sống đời đời là gì nếu không phải là sự no thỏa và thị kiến về Thiên Chúa trong Vương quốc của Người như vậy? Đặc biệt, đối với những người bị bách hại vì sống công chính, có lời phán rằng: “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”62 Trước khi chịu khổ nạn, Chúa Giêsu đã nói rõ ràng hơn, như thánh Gioan đã ghi lại: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô.”63
Chính Thánh Gioan Tông Đồ đã giải thích những lời này của Đấng Cứu Độ khi ngài viết: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”64 Chúng ta sẽ thấy Người như Người hiện hữu, và không chỉ qua sự phản chiếu những nét hoàn hảo của Người nơi các thụ tạo, nơi bản tính khả giác, hay nơi linh hồn của các thánh, qua lời nói và việc làm của họ; nhưng chúng ta sẽ thấy Người như Người hiện hữu nơi chính Người cách trực tiếp.
Thánh Phaolô nói thêm: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi.”65 Cần lưu ý rằng thánh nhân không nói rằng tôi sẽ biết Người như tôi biết chính mình, như tôi biết thế giới bên trong lương tâm của mình. Chắc chắn tôi biết nội tâm linh hồn mình rõ hơn người khác; nhưng nó vẫn còn những điều bí ẩn đối với tôi, bởi lẽ tôi không thể đo lường hết mức độ nghiêm trọng của những lỗi lầm trực tiếp hay gián tiếp có chủ ý của mình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới biết rõ tôi; những bí ẩn bên trong tâm hồn tôi chỉ được phơi bày cách sáng tỏ trước mặt Người.
Thánh Phaolô thực sự nói rằng khi ấy tôi sẽ biết Người như Người biết tôi. Cũng như Thiên Chúa biết bản chất linh hồn và đời sống nội tâm của tôi mà không qua bất cứ trung gian nào, thì tôi cũng sẽ thấy Người mà không qua bất cứ trung gian nào là thụ tạo và thậm chí, theo thần học,66 không qua bất cứ trung gian nào là ý niệm thụ tạo. Trên thực tế, không một ý niệm thụ tạo nào có thể diễn tả về Thiên Chúa như Người hiện hữu nơi chính Người là Đấng hằng hữu, về ánh sáng trí tuệ chói lọi tinh tuyền là chính Chúa và chân lý vô hạn của Người. Mọi ý niệm thụ tạo đều hữu hạn; chúng là những khái niệm về sự hoàn hảo nào đó nơi Thiên Chúa, về hiện hữu của Người, về chân lý hay sự thiện của Người, về đức khôn ngoan hay tình yêu của Người, về lòng thương xót hay đức công bình của Người. Tuy nhiên, những khái niệm đa dạng về những sự hoàn hảo thần linh này không thể giúp chúng ta biết được điều vốn là tự thân của bản chất thần linh đơn thuần tột bậc, của Thần tính hay sự sống sâu thẳm nơi Thiên Chúa. Những khái niệm đa dạng này đối với sự sống sâu thẳm nơi Thiên Chúa, đối với sự đơn thuần thần linh, cũng giống như bảy loại ánh sáng màu đối với ánh sáng trắng mà từ đó chúng phát xuất. Ở dưới thế, chúng ta giống như những người chỉ thấy được bảy loại ánh sáng qua tán sắc và ước ao được thấy ánh sáng thuần khiết là nguồn gốc tối cao của chúng. Chừng nào chưa thấy được Thần tính, chưa thấy được Thiên Chúa nơi chính Người, thì chúng ta sẽ không thể thấy được sự hài hòa mật thiết giữa những sự hoàn hảo thần linh, cách đặc biệt là giữa lòng thương xót và đức công bình vô biên. Những ý niệm do chúng ta tạo ra về các thuộc tính thần linh giống như những ô vuông nhỏ trong bức tranh khảm, thứ làm cứng đi một chút dung mạo thuần linh của Chúa. Khi nghĩ về đức công bình của Người, chúng ta có thể thấy nó quá cứng nhắc; và khi nghĩ về những ưu ái vô điều kiện nơi lòng thương xót của Người, chúng ta có thể thấy chúng thật tùy tiện. Khi suy niệm, chúng ta tự nhủ rằng trong Chúa, đức công bình và lòng thương xót là một và không có sự phân biệt thực sự nào giữa chúng. Chúng ta khẳng định chắc chắn rằng điều này là đúng, nhưng chúng ta vẫn chưa thấy được sự hài hòa mật thiết của những sự hoàn hảo thần linh này. Để thấy được điều đó, chúng ta phải thấy bản chất thần linh tự thân cách trực tiếp mà không qua bất cứ ý niệm thụ tạo nào.
Thị kiến này cấu thành nên đời sống vĩnh cửu và không ai có thể diễn tả được niềm vui và tình yêu sẽ nảy sinh trong chúng ta nhờ nó. Tình yêu dành cho Thiên Chúa sẽ mạnh mẽ và tuyệt đối đến độ không gì có thể hủy diệt hay thậm chí làm suy yếu nó. Đó sẽ là tình yêu mà nhờ nó, chúng ta sẽ vui mừng trên hết rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa, Đấng vô cùng thánh thiện, công bình và thương xót. Chúng ta sẽ tôn thờ mọi mệnh lệnh quan phòng nhằm biểu lộ lòng nhân lành của Người. Chúng ta sẽ bước vào hạnh phúc của Người, theo như chính lời của Chúa Kitô: “Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”67 Chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa như Người thấy chính Người cách trực tiếp mà không làm hao hụt chiều sâu nơi hiện hữu của Người, nơi tình yêu và quyền năng của Người, và chúng ta sẽ yêu Người như Người yêu chính Người. Chúng ta cũng sẽ thấy Chúa và Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô.
Đó chính là hạnh phúc vĩnh cửu tự bản chất của nó, vốn chưa kể đến niềm vui phụ mà chúng ta sẽ kinh nghiệm khi được thấy và yêu mến Đức Trinh Nữ Maria cùng toàn thể các thánh, cách đặc biệt là những linh hồn mà chúng ta đã quen biết trong thời gian sống ở trần gian.
Hạt giống của đời sống vĩnh cửu trong chúng ta
Thị kiến trực tiếp về Thiên Chúa mà chúng ta vừa nói đến vượt quá khả năng tự nhiên của mọi trí năng thụ tạo, cho dù là thiên thần hay loài người. Dĩ nhiên, một trí năng thụ tạo có thể nhận biết Thiên Chúa nhờ sự phản chiếu những nét hoàn hảo của Người trong trật tự thụ tạo, như thiên thần hay loài người, nhưng nó không thể thấy Người cách trực tiếp nơi chính Người như Người thấy chính mình.68 Nếu một trí năng thụ tạo có thể thấy Thiên Chúa cách trực tiếp chỉ nhờ năng lực tự nhiên của mình, thì nó sẽ có cùng một đối tượng mô thức với Trí năng thần linh; khi đó, nó sẽ có cùng bản tính với Thiên Chúa. Đây là sự lẫn lộn giữa bản tính thụ tạo và bản tính thần linh của những người theo thuyết phiếm thần.
Trí năng thụ tạo chỉ có thể được nâng lên thị kiến trực tiếp về bản tính thần linh nhờ một sự trợ giúp nhưng không, một ân sủng của Thiên Chúa. Trong các thiên thần và trong chúng ta, ân sủng này phần nào giống như một cành cây được ghép vào một bụi cây dại để giúp nó sinh hoa trái tốt. Thiên thần và linh hồn con người sẽ có khả năng sở hữu tri thức siêu nhiên về Thiên Chúa và tình yêu siêu nhiên nếu họ nhận được cành ghép thần linh này, tức là ơn thường sủng hay ân sủng thánh hóa, là sự tham dự vào bản tính thần linh và đời sống nội tại của Thiên Chúa. Chỉ có ân sủng này, vốn được ban cho bản tính của linh hồn chúng ta như một ân huệ nhưng không, mới có thể làm cho linh hồn có khả năng triệt để thực hiện các hoạt động mà cơ bản là thần linh, có thể làm cho nó có khả năng nhìn thấy Thiên Chúa cách trực tiếp như Người thấy chính Người và yêu Người như Người yêu chính Người. Nói cách khác, việc thần hóa trí năng và ý chí giả thiết một sự thần hóa chính linh hồn (trong bản chất của nó) là nơi mà các khả năng ấy phát sinh.
Khi ân sủng này đạt tới mức độ viên mãn và không thể nhận thêm, nó được gọi là vinh quang. Từ nó, trong trí năng của những người được chúc phúc trên Thiên đàng, phát sinh ra ánh sáng siêu nhiên ban cho họ sức mạnh để nhìn thấy Thiên Chúa, và trong ý chí của họ, phát sinh ra đức ái phú bẩm để họ yêu mến Người và không thể rời xa Người nữa.
Qua phép rửa tội, chúng ta đã lãnh nhận hạt giống của đời sống vĩnh cửu, vì qua đó, chúng ta nhận được ân sủng thánh hóa là nguyên lý cơ bản của sự sống này; và với ân sủng thánh hóa, chúng ta nhận được đức ái phú bẩm, là đức ái sẽ tồn tại muôn đời.
Đây là điều mà Đấng Cứu Độ đã nói với người phụ nữ Samari trong Tin Mừng Gioan: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống... Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”69 Nếu có ai đó hỏi rằng liệu những lời này của Chúa chúng ta thuộc về trật tự của khổ chế hay thần bí, thì câu hỏi ấy có vẻ không thông minh; bởi lẽ nếu Chúa chúng ta đang nói về đời sống trên Thiên đàng, thì những lời của Người càng phải được nhắm đến sự kết hiệp mật thiết giúp chuẩn bị linh hồn cho đời sống đó.
Thánh Tôma nói rằng: “Ai uống nước hằng sống của ân sủng do Đấng Cứu Độ ban tặng sẽ không còn khao khát thứ nước nào khác nữa, nhưng sẽ càng khao khát nước này mãnh liệt hơn... Hơn nữa, trong khi nước vật chất chảy xuống, thì nước thiêng liêng của ân sủng lại trào lên. Đó là nước hằng sống luôn kết hiệp với nguồn mạch (cao cả) của nó và tuôn trào đến đời sống vĩnh cửu là phần thưởng mà nó khiến chúng ta đáng được hưởng.”70 Nước hằng sống này đến từ Thiên Chúa, và đó là lý do tại sao nó thậm chí có thể trào lên trở lại với Người.
Tương tự như vậy, trong đền thờ Giêrusalem, vào ngày bế mạc Lễ Lều, Chúa Kitô đã đứng lên và kêu lớn tiếng: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.”71 Những người uống nước thiêng liêng, những kẻ tin vào Đấng Cứu Độ, sẽ múc lấy từ nguồn nước hằng sống và có thể múc lấy không chỉ cho chính mình nhưng còn cho những linh hồn khác để được ơn cứu độ.
Trong nhiều dịp, như chúng ta đã chỉ ra, Chúa Giêsu còn lặp lại: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời.”72 Và không chỉ có sự sống đó sau này, nhưng theo một nghĩa nào đó, người ấy đã được sở hữu nó ngay từ bây giờ, vì đời sống ân sủng là bước đầu của đời sống vĩnh cửu.
Trên thực tế, về bản chất, đó là cùng một sự sống, giống như hạt giống trong quả sồi có cùng sự sống với cây sồi trưởng thành, và như linh hồn của đứa trẻ cũng chính là linh hồn sẽ phát triển trong con người trưởng thành.
Về cơ bản, sự sống thần linh tồn tại như một mầm mống hay hạt giống trong người Kitô hữu dưới thế cũng là một với sự sống đã phát triển tới tầm vóc viên mãn nơi các thánh trên Thiên đàng. Đó là những người sống sự sống đời đời cách đích thực. Điều này giải thích tại sao Chúa Kitô cũng phán: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.”73 “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: ‘Ở đây này!’ hay ‘Ở kia kìa!’, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”74 Nó ẩn tàng ở đó như một hạt cải, như nắm men làm cho cả thúng bột dậy men, như kho báu chôn giấu trong thửa ruộng.
Vậy làm sao chúng ta biết được mình đã lãnh nhận sự sống đời đời này? Thánh Gioan giải thích chi tiết: “Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó.”75 “Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.”76 Chúa Giêsu đã phán: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết.”77 Thật vậy, phụng vụ diễn tả ý niệm này trong phần kinh tiền tụng của Thánh lễ an táng: “Vì, lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi;” trái lại, sự sống đạt tới sự phát triển viên mãn của nó trên Thiên đàng. Mọi truyền thống đều tuyên bố rằng đời sống ân sủng trên trần gian thực sự là hạt giống của vinh quang. Thánh Tôma cảm thấy thích thú khi nói rằng: “Vì ân sủng không gì khác hơn là khởi đầu của vinh quang trong chúng ta.”78 Bossuet cũng thường diễn đạt bằng những thuật ngữ tương tự.79
Điều này giải thích tại sao Thánh Tôma lại nói: “Thiện ích của ân sủng nơi một người thì lớn hơn thiện ích của tự nhiên nơi toàn thể vũ trụ.”80 Mức độ nhỏ nhất của ân sủng thánh hóa chứa đựng trong linh hồn của một trẻ sơ sinh sau khi chịu phép rửa cũng quý giá hơn thiện ích tự nhiên của toàn thể vũ trụ, bao gồm tất cả các bản tính thiên thần; bởi lẽ mức độ nhỏ nhất của ân sủng thánh hóa thuộc về một trật tự hết sức cao cả, trật tự của đời sống nội tại nơi Thiên Chúa vốn cao cả hơn mọi phép lạ và mọi dấu chỉ bên ngoài của mặc khải thần linh.81
Cùng một sự sống siêu nhiên, cùng một ân sủng thánh hóa, vừa hiện diện nơi những người công chính dưới thế vừa hiện diện nơi các thánh trên Thiên đàng. Điều này cũng đúng đối với đức ái phú bẩm, nhưng có hai điểm khác biệt: ở dưới thế, chúng ta nhận biết Thiên Chúa không phải qua sự sáng tỏ của thị kiến, nhưng qua sự mờ mịt của đức tin phú bẩm; và hơn nữa, mặc dù chúng ta hy vọng sở hữu Người theo cách không bao giờ đánh mất, nhưng chúng ta vẫn có thể đánh mất Người ở đời này vì lỗi lầm của chính mình.
Nhưng bất chấp hai sự khác biệt này, sự sống ấy vẫn là một vì vẫn cùng một ân sủng thánh hóa và cùng một đức ái, cả hai đều tồn tại muôn đời. Đây chính xác là điều mà Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samari: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban,... thì hẳn chị đã xin... Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."82 Dưới ánh sáng của nguyên lý này, chúng ta cần phải suy xét xem đời sống nội tâm của mình nên như thế nào và sự phát triển trọn vẹn, bình thường của nó cần phải ra sao để có thể xứng đáng là khúc dạo đầu của đời sống vĩnh cửu. Vậy nếu ân sủng thánh hóa, các nhân đức phú bẩm và các ân huệ tự bản chất đều được ấn định cho đời sống vĩnh cửu, thì chẳng phải chúng cũng được ấn định cho sự kết hiệp thần bí sao? Sự kết hiệp này chẳng phải chính là khúc dạo đầu thông thường cho đời sống vĩnh cửu trong những tâm hồn thực sự hoàn toàn quảng đại sao?
Một hệ quả quan trọng
Từ những điều vừa nói, ít nhất chúng ta có thể suy ra tính chất ngoại thường của sự chiêm niệm thiên phú về các mầu nhiệm đức tin và sự kết hiệp với Thiên Chúa phát sinh từ đó. Giả định này sẽ ngày càng được xác nhận rõ ràng hơn trong những phần tiếp theo và sẽ trở thành một điều chắc chắn.
Trên thực tế, ân sủng thánh hóa và đức ái, những điều giúp kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa trong sự sống sâu thẳm nơi Người, có vị trí cao trọng hơn nhiều so với những ơn nhưng không và ngoại thường, chẳng hạn như ơn nói tiếng lạ và ơn nói tiên tri, vốn chỉ là những dấu chỉ biểu lộ sự can thiệp thần linh và tự thân chúng không giúp chúng ta kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã khẳng định rõ điều này83 và Thánh Tôma đã chú giải rất hay.84
Như chúng ta sẽ thấy, sự chiêm niệm thiên phú, một hành vi của đức tin phú bẩm được soi sáng bởi các ơn khôn ngoan và thông hiểu, phát xuất từ ân sủng thánh hóa hay còn được gọi là “ân sủng của các nhân đức và ân huệ”85 mà tất cả mọi người đều đã lãnh nhận trong phép rửa tội, chứ không phải từ các ơn nhưng không và ngoại thường. Các nhà thần học nhìn chung đều thừa nhận điều này. Do đó, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể nghiêm túc cho rằng sự chiêm niệm thiên phú và sự kết hiệp với Thiên Chúa phát sinh từ nó không phải là điều gì đó tự bản chất là ngoại thường, giống như ơn nói tiếng lạ hay ơn nói tiên tri. Và một khi không phải là những điều ngoại thường tự bản chất, chẳng phải nơi chúng thuộc về chính là con đường thánh thiện thông thường hay sao?
Một lý do thứ hai, thậm chí còn nổi bật hơn, phát xuất trực tiếp từ điều mà chúng ta vừa nói, đó là: ân sủng thánh hóa, vốn tự bản chất được ấn định cho sự sống đời đời, cũng được ấn định tự bản chất một cách bình thường cho sự chuẩn bị gần như hoàn hảo để đón nhận ánh sáng vinh quang cách tức thời. Sự chuẩn bị gần kề này là đức ái hoàn hảo với lòng khao khát mãnh liệt được hưởng vinh phúc, một khao khát mãnh liệt thường chỉ được tìm thấy trong sự kết hiệp với Thiên Chúa phát sinh từ sự chiêm niệm thiên phú về các mầu nhiệm cứu độ.
Do đó, sự chiêm niệm này không phải là điều ngoại thường tự bản chất như ơn nói tiên tri, nhưng là điều gì đó thực sự nổi bật nhưng xuất hiện theo cách bình thường của sự thánh thiện, mặc dù nó tương đối hiếm gặp giống như một sự hoàn thiện cao cả.
Chúng ta cũng phải nói thêm rằng, chiếu theo sự hoàn thiện trọn vẹn của nó, niềm khao khát mãnh liệt về thị kiến vinh phúc chỉ được tìm thấy trong sự kết hiệp siêu biến, hay sự kết hiệp thần bí ở cấp độ cao hơn, do đó, dường như không nằm ngoài con đường thánh thiện thông thường. Để hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của lý do này, chúng ta có thể nhận xét rằng, nếu có một điều tốt lành mà người Kitô hữu nên khao khát tha thiết, thì đó chính là Thiên Chúa được thấy diện đối diện và được yêu mến trên hết mọi sự, trong khi người ấy không còn khả năng phạm tội. Rõ ràng phải có sự cân xứng giữa cường độ của khao khát và giá trị của điều tốt lành được khao khát; trong trường hợp này, giá trị ấy là vô hạn. Tất cả chúng ta nên là “những lữ khách của Đấng Tuyệt Đối” “đang khi... lưu lạc xa Chúa.”86
Sau cùng, vì ân sủng thánh hóa tự bản chất được ấn định cho sự sống đời đời, nên nó cũng được ấn định cho một sự chuẩn bị gần kề để chúng ta được đón nhận ánh sáng vinh quang ngay sau khi chết mà không phải trải qua luyện ngục. Luyện ngục là một hình phạt giả thiết một tội lỗi có thể tránh được và một sự đền bù chưa đầy đủ mà lẽ ra có thể được hoàn tất nếu chúng ta chấp nhận những đau khổ của cuộc đời trần thế với một sự chuẩn bị tốt hơn. Thật vậy, chắc chắn rằng không có ai chịu giam hãm trong luyện ngục mà không phải vì những tội lỗi mà họ có thể tránh được hay vì sự chểnh mảng trong việc đền bù những tội lỗi ấy. Thông thường, luyện ngục sẽ được trải qua ở đời này trong khi lập công phúc, trong khi trưởng thành trong đức mến, thay vì sau khi chết mà không có công trạng.
Sự chuẩn bị gần kề hầu đón nhận ánh sáng vinh quang ngay sau khi chết giả thiết một sự thanh luyện đích thực, tương tự như sự thanh luyện nơi những linh hồn sắp rời khỏi luyện ngục là những người khao khát mãnh liệt được diện kiến tôn nhan Chúa.87 Thông thường, khao khát mãnh liệt này chỉ tồn tại ở dưới thế khi kết hiệp với Thiên Chúa nhờ sự chiêm niệm thiên phú về các mầu nhiệm cứu độ. Vì thế, ngay cả bây giờ, sự chiêm niệm cũng rõ ràng không phải là một ân sủng ngoại thường, nhưng là một ân sủng cao cả trong con đường thánh thiện thông thường.
Niềm khao khát mãnh liệt hướng về Thiên Chúa, sự chuẩn bị gần kề thông thường hướng đến thị kiến vinh phúc, đã được Thánh Phaolô diễn tả một cách xuất sắc: “Dù con người bên ngoài của chúng ta có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng ta ngày càng đổi mới... Thật thế, bao lâu còn ở trong chiếc lều này, chúng ta rên siết, khổ tâm vì không muốn cởi bỏ cái này, nhưng lại muốn trùm thêm lên mình cái kia... Đấng đã tạo thành chúng ta vì mục đích ấy chính là Thiên Chúa, Người đã ban Thần Khí cho chúng ta làm bảo chứng.”88
Tất nhiên, để có thể bàn luận về các vấn đề của thần học khổ chế và thần bí một cách xác đáng, chúng ta không được quên những đỉnh cao này như những gì Kinh Thánh, qua thần học của các bậc thầy vĩ đại, đã tỏ cho chúng ta. Nếu có một lĩnh vực mà trong đó, con người không chỉ cần được xét là chính mình, nhưng còn là những gì mình hẳn phải là, thì lĩnh vực đó rõ ràng là tu đức. Nơi đó, người ta có thể tự do hít thở bầu khí trong lành từ những đỉnh cao vượt trên những quy ước của con người. Phúc thay những linh hồn đã được thử thách, những người, như Thánh Phaolô Thánh Giá, được tự do hít thở trong địa hạt của Chúa và khao khát Người bằng tất cả sức lực của mình.
Chú thích
55 X. Ia IIae, q. 113, a. 9 ad 2um.
56 Khi bắt đầu một khảo luận về đời sống nội tâm, điều quan trọng là phải có một ý niệm sâu sắc về ân sủng thánh hóa; đạo Tin Lành, theo chân một số người theo thuyết duy danh ở thế kỷ XIV, đã đánh mất quan niệm về nó. Theo quan điểm của Luther, con người được công chính hóa không phải bởi một đời sống mới do Thiên Chúa ban, nhưng bởi sự quy thuộc ngoại tại những công phúc của Chúa Kitô, theo cách mà con người không hề thay đổi về nội tâm và không nhất thiết phải tuân giữ giới răn yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự để được cứu độ. Đó là quan niệm sai lầm tận căn về đời sống nội tâm mà Tin Mừng nói đến. Học thuyết đáng thương này được nhào nặn bởi những người theo thuyết duy danh, những người cho rằng ân sủng là một ân huệ không hề siêu nhiên tự bản chất, nhưng chỉ là thứ, về mặt luân lý, ban cho quyền được sống đời đời, giống như tiền giấy, thứ tuy chỉ là tờ giấy, nhưng nhờ một thể chế pháp lý, lại ban cho quyền để nhận tiền. Học thuyết này đưa tới sự phủ nhận đối với đời sống mà bản chất là siêu nhiên; nó là sự thất bại trong việc nhận ra bản chất của ân sủng và các nhân đức đối thần.
57 Ngay cả trong Phaedon, tương lai cũng được diễn tả như vậy.
58 Mt 7,14.
59 Sđd, 19,17.
60 Ga 5,24; 6,40.47.55.
61 Mt 5,3-8.
62 Sđd, 5,12.
63 Ga 17,1-3.
64 X. 1 Ga 3,2.
65 X. 1 Cr 13,12.
66 Thánh Tôma, Ia, q. 12, a. 2.
67 Mt 25,21.23.
68 Thánh Tôma, Ia, q. 12, a. 4.
69 Ga 4,10-14.
70 Commentum in Joannem, 4,3 tt.
71 Ga 7,37 tt.
72 Ga 3,36; 5,24.39; 6,40.47.55.
73 Ga 6,55.
74 Lc 17,20 tt.
75 X. 1 Ga 3,14 tt.
76 Sđd, 5,13.
77 Ga 8,51.
78 X. IIa IIae, q. 24, a. 3 ad 2um; Ia IIae, q. 69, a. 2; De veritate, q. 14, a. 2.
79 Meditations sur l’evangile, II, 37th day, in Joan. 17,3.
80 X. Ia IIae, q. 1113, a. 9 ad 2um.
81 Sđd, q. II I, a. 5: “Gratia gratum faciens [ân sủng thánh hóa] ưu việt hơn nhiều so với gratia gratis data [ơn được ban cách nhưng không]”; nói cách khác, ân sủng thánh hóa, thứ kết hiệp chúng ta với chính Thiên Chúa, vô cùng trổi vượt so với ơn nói tiên tri và các phép lạ, so với những dấu chỉ của sự can thiệp thần linh.
82 Ga 4,10-14.
83 X. 1 Cr 12,28 tt.; 13,1 tt.
84 X. Ia IIae, q. 111, a. 5: “Gratia gratum faciens [ân sủng thánh hóa] ưu việt hơn nhiều so với gratia gratis data [ơn được ban cách nhưng không].”
85 X. IIIa, q. 62, a. 1.
86 X. 2 Cr 5,6.
87 Thánh Tôma đã đưa ra một lời chú giải hay về niềm khao khát mãnh liệt hướng về Thiên Chúa nơi các linh hồn trong luyện ngục. (Chúng ta sẽ quay lại điểm này sau khi nói về sự thanh tẩy thụ động.) X. IV Sent., d.21, a.1 ad quaestionem 3am. “Một điều gì đó càng được khao khát, thì sự thiếu vắng nó càng gây đau đớn. Và vì tình yêu, thứ mà nhờ đó, Sự Thiện tối thượng được khao khát sau cuộc đời trần thế này, đạt tới mức mãnh liệt nhất nơi những linh hồn thánh thiện, bởi lẽ tình yêu nơi họ không còn bị cản trở bởi sự nặng nề của thân xác, và bởi thời điểm tận hưởng Sự Thiện tối thượng đã tới rồi, trừ khi có điều gì đó cản trở nó, và chính vì lý do này mà sự trì hoãn gây ra cho họ rất nhiều đau khổ.” Vì thế, chúng ta sẽ rất đau khổ vì đói nếu không có thức ăn trong khoảng hơn một ngày, khi cơ thể chúng ta, theo cơ chế tự nhiên của nó, tìm cách phục hồi. Đối với trật tự đời sống của linh hồn, trong nhiệm cục cứu độ, cơ chế tự nhiên như vậy là việc sở hữu Thiên Chúa ngay sau khi chết. Khác xa với những gì tự bản chất là ngoại thường, đây là con đường thông thường, như chúng ta thấy nó trong cuộc đời các thánh.
88 X. 2 Cr 4,16 tt.; 5,1 tt.