Mục 2: Khi thời gian viên mãn (2598-2622)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

2598

Vấn đề cầu nguyện được mặc khải cho chúng ta cách trọn vẹn trong Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Khi tìm hiểu việc cầu nguyện của Người qua những gì các chứng nhân kể lại trong Tin Mừng, chúng ta được đến gần Đấng thánh là Chúa Giê-su, như đến gần Bụi cây đang cháy: trước tiên chiêm ngưỡng chính Người cầu nguyện, rồi lắng nghe Người dạy chúng ta cầu nguyện, để sau cùng nhận biết Người nhận lời cầu nguyện của chúng ta như thế nào.

Chúa Giê-su cầu nguyện (2599-2606)

2599470-473, 584, 534

Con Thiên Chúa, khi trở thành Con Đức Trinh Nữ, cũng đã học cầu nguyện theo trái tim nhân loại của Người. Chúa Giê-su đã học những công thức cầu nguyện nơi thân mẫu Người là đấng hằng ghi nhớ và luôn suy niệm trong lòng về mọi điều “cao cả” của Đấng Toàn Năng.41 Người cầu nguyện bằng những lời kinh và âm điệu của dân Người, trong Hội đường Na-da-rét và trong Đền Thờ. Nhưng kinh nguyện của Người còn phát xuất từ một nguồn mạch sâu kín hơn, như chính Người đã hé mở cho thấy lúc Người lên mười hai tuổi: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con” (Lc 2,49). Ở đây, tính cách mới mẻ của việc cầu nguyện trong thời viên mãn bắt đầu được mặc khải: đó là lời cầu nguyện của Người Con, mà Chúa Cha vẫn chờ mong nơi các con cái của Ngài, cuối cùng đã được chính Người Con Một thực hiện trong nhân tính của Người cùng với con người và vì con người.

2600535, 554, 612, 858, 443

Tin Mừng theo thánh Lu-ca nhấn mạnh đến tác động của Chúa Thánh Thần và ý nghĩa của việc cầu nguyện trong thừa tác vụ của Đức Ki-tô. Chúa Giê-su cầu nguyện trước những thời điểm quyết định trong sứ vụ của Người: trước khi Chúa Cha làm chứng về Người lúc Người chịu phép rửa,42 lúc Người Hiển Dung,43 và trước khi Người hoàn thành ý định yêu thương của Chúa Cha bằng cuộc thương khó của Người.44 Người cũng cầu nguyện trước những thời điểm quyết định liên quan đến sứ vụ của các Tông Đồ của Người: trước khi gọi và chọn nhóm Mười Hai,45 trước khi ông Phê-rô tuyên xưng Người là “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”,46 và để lòng tin của vị thủ lãnh các Tông Đồ khỏi bị suy yếu trong cơn thử thách.47 Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trước các biến cố cứu độ, mà Chúa Cha đòi Người phải thể hiện, là sự phó thác khiêm nhường và đầy tin tưởng của ý chí nhân loại của Người cho ý muốn đầy yêu thương của Chúa Cha.

26012765

“Có một lần Chúa Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: ‘Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện’” (Lc 11,1). Chẳng phải là người môn đệ của Đức Ki-tô, vì chiêm ngưỡng Thầy mình cầu nguyện trước, rồi khao khát cầu nguyện đó sao? Lúc đó, người này có thể học cầu nguyện từ bậc Thầy của việc cầu nguyện. Khi chiêm ngưỡng và lắng nghe Người Con, các con cái học biết cầu nguyện với Chúa Cha.

2602616

Chúa Giê-su thường lui vào nơi thanh vắng, lên núi, nhất là lúc đêm khuya, để cầu nguyện.48

Vì trong cuộc Nhập Thể, Người đã thông phần nhân tính, nên Người mang lấy mọi người trong kinh nguyện của Người, và Người dâng họ lên Chúa Cha bằng việc tự hiến chính mình Người. Chính Người, Ngôi Lời “đã mặc lấy xác phàm”, trong lời cầu nguyện nhân loại của mình, thông phần vào những gì “các anh em” của Người đang sống;49 Người cảm thông những yếu đuối của họ để giải thoát họ khỏi những yếu đuối ấy.50 Chính vì mục đích này mà Chúa Cha đã sai Người đến. Những lời nói cũng như việc làm của Người là biểu hiện rõ ràng về những gì Người cầu nguyện “trong thầm kín.”

26032673, 2546, 494

Các tác giả sách Tin Mừng giữ lại hai lời cầu nguyện minh nhiên của Đức Ki-tô trong thời gian Người thi hành tác vụ. Cả hai đều khởi đầu bằng lời tạ ơn. Trong lời nguyện thứ nhất,51 Chúa Giê-su tuyên xưng, nhận biết và chúc tụng Chúa Cha vì Chúa Cha đã giấu các mầu nhiệm Nước Trời đối với những người tưởng mình khôn ngoan, nhưng lại mặc khải cho “những người bé mọn” (những người nghèo của các mối phúc). Sự rung cảm của Người, “Vâng, lạy Cha!” nói lên những gì tận đáy lòng Người, sự gắn bó của Người với “điều đẹp ý” Chúa Cha, như vọng lại lời “Xin vâng” của Mẹ Người lúc thụ thai Người, và như khúc dạo đầu cho lời Người sẽ thưa với Chúa Cha trong cơn hấp hối. Toàn bộ kinh nguyện của Chúa Giê-su đều chất chứa tâm tình gắn bó yêu thương của trái tim nhân loại của Người đối với “mầu nhiệm thánh ý” của Chúa Cha.52

2604478, 2746

Lời cầu nguyện thứ hai được thánh Gio-an53 ghi lại vào lúc trước khi La-da-roo được cho sống lại. Lời tạ ơn đi trước biến cố: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời con” hàm ý là Chúa Cha luôn nhận lời Người cầu xin; và Chúa Giê-su thêm ngay: “Con vẫn biết Cha luôn nghe lời Con” hàm ý Chúa Giê-su luôn nài xin Chúa Cha. Như vậy, lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, được khởi đầu bằng tâm tình tạ ơn, mặc khải cho chúng ta biết phải cầu xin như thế nào: trước khi nhận được hồng ân, Chúa Giê-su đã gắn bó với Đấng ban ơn, cũng là Đấng tự ban mình trong các hồng ân của Ngài. Đấng ban ơn thì quý trọng hơn hồng ân bội phần, chính Ngài là “Kho tàng” và tâm hồn của Con Ngài quy hướng về chính Ngài; hồng ân chỉ là điều được “ban thêm.”54 Lời nguyện “tư tế” của Chúa Giê-su55 có một vị trí độc nhất vô nhị trong nhiệm cục cứu độ (lời nguyện này sẽ được suy niệm ở cuối Đoạn thứ nhất). Thật vậy, lời cầu nguyện này cho thấy kinh nguyện của Đức Ki-tô Thượng Tế luôn là lời cầu nguyện của ngày hôm nay, và đồng thời cũng dạy chúng ta cách cầu nguyện cùng Chúa Cha (vấn đề sẽ được bàn đến trong Đoạn thứ hai).

2605614

Khi đến Giờ hoàn tất ý định yêu thương của Chúa Cha, Chúa Giê-su cho thoáng thấy chiều sâu khôn dò của lời cầu nguyện của Người Con, không những trước khi Người tự nguyện trao nộp chính mình (“Lạy Cha,… xin đừng cho ý Con thể hiện, mà là ý Cha”: Lc 22,42), mà cả đến những lời cuối cùng của Người trên thập giá, lúc mà cầu nguyện và tự hiến trở nên một. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34); “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43); “Thưa Bà, đây là con của Bà… Đây là Mẹ của anh” (Ga 19,26-27); “Tôi khát” (Ga 19,28); “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34);56 “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30); “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46) cho đến cả “tiếng kêu lớn” khi Người trao hơi thở.57

2606403, 653, 2587

Tất cả những đau khổ của nhân loại trong mọi thời, dưới ách nô lệ tội lỗi và sự chết, tất cả mọi lời van xin và chuyển cầu suốt lịch sử cứu độ, đều được thu tóm vào Tiếng kêu lớn của Ngôi Lời Nhập Thể. Chúa Cha đón nhận tất cả và, vượt quá mọi mong đợi, Ngài nhận lời tất cả khi cho Con Ngài sống lại. Như vậy, toàn thể kinh nguyện trong nhiệm cục tạo dựng và cứu độ được thực hiện và hoàn tất. Tập Thánh vịnh trao cho chúng ta chìa khóa của việc cầu nguyện trong Đức Ki-tô. Chính trong “Ngày hôm nay” của biến cố Phục sinh, Chúa Cha phán: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con. Con cứ xin, rồi Cha ban tặng, muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa” (Tv 2,7-8).58

Thư gửi tín hữu Do-thái dùng những lời lẽ bi thảm để diễn tả lời cầu nguyện của Chúa Giê-su đã đem lại chiến thắng cứu độ như thế nào: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Chúa Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9).

Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện (2607-2615)

2607520

Khi Chúa Giê-su cầu nguyện, là Người đã dạy chúng ta cầu nguyện. Con đường đối thần của lời cầu nguyện của chúng ta là lời cầu nguyện của Chúa Giê-su dâng lên Cha Người. Nhưng Tin Mừng còn lưu lại cho chúng ta giáo huấn minh nhiên của Chúa Giê-su về việc cầu nguyện. Là nhà sư phạm, Người bắt đầu từ hiện trạng của chúng ta, và từng bước một dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Cha. Khi nói với đám đông dân chúng đang đi theo Người, Chúa Giê-su khởi đi từ những gì họ đã biết về cầu nguyện theo như Giao ước cũ và mở cho họ thấy nét mới mẻ của Nước Trời đang đến. Người mặc khải cho họ nét mới mẻ này qua các dụ ngôn. Sau cùng, với các môn đệ là những người sẽ phải làm thầy dạy cầu nguyện trong Hội Thánh, thì Người nói rõ về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

2608541, 1430

Ngay từ Bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến việc hối cải tâm hồn: phải hòa giải với người anh em trước khi đến dâng lễ phẩm trên bàn thờ,59 phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ bách hại mình,60 phải cầu nguyện cùng Chúa Cha, Đấng hiện diện “nơi kín đáo” (Mt 6,6), không lải nhải nhiều lời,61 thật lòng tha thứ trong cầu nguyện,62 có tâm hồn thanh khiết và lo tìm kiếm Nước Trời.63 Cuộc hối cải này hoàn toàn hướng về Chúa Cha, và đượm tình con thảo.

2609153, 1814

Tâm hồn, một khi đã sẵn sàng hối cải như vậy, sẽ học biết cầu nguyện trong đức tin. Tin là gắn bó đầy tình con thảo với Thiên Chúa, vượt quá những gì chúng ta cảm thấy và hiểu biết. Sự gắn bó này có thể thực hiện được vì Người Con yêu dấu đã mở lối cho chúng ta đến với Chúa Cha. Người có thể yêu cầu chúng ta “tìm kiếm” và “gõ”, vì chính Người là cửa và là con đường.64

2610165

Chúa Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha và tạ ơn trước khi nhận được các hồng ân của Chúa Cha thế nào, thì Người cũng dạy chúng ta bạo dạn như những người con như vậy: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi” (Mc 11,24). Sức mạnh của cầu nguyện là như thế: “mọi sự đều có thể, đối với người tin” (Mc 9,23) bằng một đức tin không nghi nan.65 Chúa Giê-su rất buồn phiền “vì sự cứng tin” của đám bà con thân thuộc của Người (Mc 6,6), và vì lòng tin yếu kém của các môn đệ Người,66 trái lại Người thán phục trước lòng tin mạnh mẽ của viên sĩ quan Rô-ma67 và người phụ nữ xứ Ca-na-an.68

26112827

Lời cầu nguyện của đức tin không hệ tại ở chỗ thưa: “Lạy Chúa, Lạy Chúa”, nhưng là sẵn lòng thi hành thánh ý của Chúa Cha.69 Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ Người đem vào lời cầu nguyện70 sự quan tâm cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa.

2612672, 2725

Nơi Chúa Giê-su, “triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1,15), Người kêu gọi con người hối cải, tin tưởng và tỉnh thức nữa. Khi cầu nguyện, người môn đệ chăm chú hướng về Đấng hiện có và đang đến, vừa tưởng nhớ việc Người đến lần thứ nhất trong xác phàm khiêm hạ, vừa hy vọng Người đến lần thứ hai trong vinh quang.71 Đối với các môn đệ, cầu nguyện là một cuộc chiến đấu trong sự hiệp thông với Thầy mình, và chính nhờ tỉnh thức trong cầu nguyện mà ta không sa chước cám dỗ.72

2613546, 2559

Có ba dụ ngôn chính về cầu nguyện được thánh Lu-ca lưu lại cho chúng ta:

— Dụ ngôn thứ nhất, “Người bạn quấy rầy”,73 mời gọi cầu nguyện cách khẩn khoản: “Anh em cứ gõ cửa thì cửa sẽ mở cho anh em.” Chúa Cha trên trời sẽ ban cho người cầu nguyện bất cứ điều gì người ấy cần và nhất là ban Chúa Thánh Thần, Đấng chứa đựng mọi hồng ân.

— Dụ ngôn thứ hai, “Bà góa quấy rầy”,74 tập trung vào một trong các phẩm tính của việc cầu nguyện: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”, với sự kiên trì của lòng tin. “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”

— Dụ ngôn thứ ba, “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế”,75 liên quan đến sự khiêm tốn trong lòng của người cầu nguyện. “Lạy Thiên Chúa, xin thương con là kẻ tội lỗi.” Hội Thánh không ngừng lấy lời cầu nguyện ấy làm lời cầu nguyện của mình: Kyrie eleison! (Xin Chúa thương xót chúng con!)

2614434

Khi Chúa Giê-su ký thác cách công khai cho các môn đệ Người mầu nhiệm cầu nguyện với Chúa Cha, thì Người tỏ cho các ông kinh nguyện của các ông – và cũng là của chúng ta – phải thế nào, một khi Người sẽ trở về với Chúa Cha trong nhân tính đã được tôn vinh của Người. Vào lúc đó điều mới mẻ là “cầu xin nhân danh Người.”76 Lòng tin vào Người đưa các môn đệ đến chỗ biết Chúa Cha, vì Chúa Giê-su là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Lòng tin mang lại hoa trái trong lòng mến: đó là tuân giữ lời Người, các giới răn của Người, đó là cùng với Người ở lại trong Chúa Cha, Đấng yêu mến chúng ta trong Người, đến độ ở lại trong chúng ta. Trong Giao ước mới này, chúng ta xác tín rằng những lời cầu xin của chúng ta được đoái nhận, niềm xác tín đó dựa trên nền tảng là lời cầu nguyện của Chúa Giê-su.77

2615728

Hơn nữa, khi lời cầu nguyện của chúng ta được kết hợp với lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, Chúa Cha “sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14,16-17). Nét mới mẻ này của lời cầu nguyện và của các điều kiện [để cầu nguyện] xuất hiện suốt diễn từ cáo biệt.78 Trong Chúa Thánh Thần, kinh nguyện Ki-tô Giáo là sự hiệp thông tình yêu với Chúa Cha, không phải chỉ nhờ Đức Ki-tô mà còn trong Người nữa: “Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16,24).

Chúa Giê-su nhận lời cầu nguyện (2616)

2616548, 2667

Lúc Người còn đang thi hành tác vụ, lời cầu nguyện với Chúa Giê-su đã được chính Người nhận lời, qua các dấu lạ, những dấu lạ này tiền dự vào sức mạnh của sự chết và sự sống lại của Người. Chúa Giê-su nhận lời cầu nguyện của đức tin, được diễn tả bằng lời nói (của người bệnh phong,79 của ông Giairô,80 của người phụ nữ Ca-na-an,81 của người trộm lành82 ), hay trong thinh lặng (của những kẻ khiêng người bất toại,83 của người đàn bà bị bệnh loạn huyết đụng chạm vào áo Người,84 nước mắt và dầu thơm của người phụ nữ tội lỗi85 ). Lời nài xin tha thiết của những người mù: “Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi” (Mt 9,27) hay “Lạy Ông Giê-su, Con Vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi” (Mc 10,48) được sử dụng lại trong truyền thống Khẩn nguyện Chúa Giê-su (Oratio ad Iesum): “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, là Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Chúa Giê-su luôn đáp lại lời cầu xin Người với đức tin, bằng cách chữa lành bệnh tật hoặc thứ tha tội lỗi: “Cứ về bình an, lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

Thánh Augustinô đã khéo léo tóm tắt ba chiều kích của lời cầu nguyện của Chúa Giê-su: “Người cầu nguyện cho chúng ta, vì Người là vị Tư Tế của chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta vì Người là Đầu của chúng ta; Người được chúng ta cầu nguyện, vì Người là Thiên Chúa của chúng ta. Vậy chúng ta phải nhận biết tiếng nói của chúng ta trong Người, lẫn tiếng nói của Người trong chúng ta.”86

Lời cầu nguyện của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a (2617-2619)

2617148, 494, 490

Lời cầu nguyện của Đức Ma-ri-a được mặc khải cho chúng ta vào buổi bình minh của lúc thời gian viên mãn. Trước cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa và trước việc đổ tràn Thánh Thần xuống, lời cầu nguyện của Mẹ cộng tác cách độc đáo vào kế hoạch ưu ái của Chúa Cha: vào lúc Truyền tin để Đức Ki-tô được thụ thai,87 vào lúc Hiện Xuống để Hội Thánh, Thân thể của Đức Ki-tô, được hình thành.88 Hồng ân của Thiên Chúa được đón nhận nơi lòng tin của người nữ tì khiêm tốn của Ngài, sự đón nhận mà Ngài đã đợi chờ từ lúc khởi sự thời gian. Người nữ ấy, đã được Đấng Toàn Năng làm cho “đầy ân sủng”, đã đáp lại bằng việc tiến dâng trọn bản thân mình: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin thực hiện cho tôi như lời của Ngài.” Lời thưa Fiat (Xin vâng) chính là lời cầu nguyện của Ki-tô Giáo: tất cả là của Chúa bởi vì chính Chúa là tất cả của chúng ta.

26182674, 726

Tin Mừng mặc khải cho chúng ta Đức Ma-ri-a cầu nguyện và chuyển cầu trong lòng tin như thế nào: tại Ca-na,89 Thân mẫu Chúa Giê-su cầu xin Con mình lo đến nhu cầu của bữa tiệc cưới. Bữa tiệc này là dấu chỉ của một Bữa tiệc khác, là tiệc cưới Chiên Con, Đấng ban tặng Mình Máu Người theo lời nài xin của Hội Thánh, Hiền Thê của Người. Vào giờ của Giao ước mới, gần bên thánh giá,90 Đức Ma-ri-a đã được nhận lời, với tư cách là Người Nữ, tức là bà E-và mới, đích thực là “Mẹ của chúng sinh.”

2619724

Do đó, bài ca của Đức Ma-ri-a91 (tiếng La-tinh là Magnificat và tiếng Byzantin là Megalinárion) là bài ca vừa của Mẹ Thiên Chúa vừa của Hội Thánh, bài ca vừa của Thiếu nữ Xi-on, vừa của dân mới của Thiên Chúa, bài ca tạ ơn vì sự viên mãn của các ân sủng được ban tràn đầy trong Nhiệm cục cứu độ, bài ca của “những người nghèo” thấy niềm hy vọng của mình được thực hiện nhờ việc hoàn thành các lời hứa dành cho cha ông chúng ta, “cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”

Tóm lược (2620-2622)

2620

Trong Tân Ước, khuôn mẫu tuyệt hảo của cầu nguyện là lời cầu nguyện đầy tình con thảo của Chúa Giê-su. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su – thường được thực hiện trong nơi vắng vẻ và kín đáo – bao hàm sự gắn bó đầy tình yêu với thánh ý Chúa Cha cho đến tận thập giá, và sự tin tưởng tuyệt đối là được nhận lời.

2621

Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện với tâm hồn trong sạch, với đức tin sống động, luôn kiên nhẫn và sự bạo dạn của người con. Người đòi buộc họ phải tỉnh thức và mời gọi họ dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin nhân danh Người. Chính Chúa Giê-su Ki-tô nhận những lời cầu nguyện dâng lên Người.

2622

Kinh nguyện của Đức Ma-ri-a, trong lời “Xin vâng” và trong bài ca “Magnificat” của Mẹ, có nét đặc thù là sự quảng đại hiến dâng trọn bản thân Mẹ trong đức tin.


Chú thích

41 X. Lc 1,49; 2,19.51.

42 X. Lc 3,21.

43 X. Lc 9,28.

44 X. Lc 22,41-44.

45 X. Lc 6,12.

46 X. Lc 9,18-20.

47 X. Lc 22,32.

48 X. Mc 1,35; 6,46; Lc 5,16.

49 X. Dt 2,12.

50 X. Dt 2,15; 4,15.

51 X. Mt 11,25-27; Lc 10,21-22.

52 X. Ep 1,9.

53 X. Ga 11,41-42.

54 X. Mc 6,21.33.

55 X. Ga 17.

56 X. Tv 22,2.

57 X. Mc 15,37; Ga 19,30.

58 X. Cv 13,33.

59 X. Mt 5,23-24.

60 X. Mt 5,44-45.

61 X. Mt 6,7.

62 X. Mt 6,14-15.

63 X. Mt 6,21.25.33.

64 X. Mt 7,7-11.13-14.

65 X. Mt 21,21.

66 X. Mt 8,26.

67 X. Mt 8,10.

68 X. Mt 15,28.

69 X. Mt 7,21.

70 X. Mt 9,38; Lc 10,2; Ga 4,34.

71 X. Mc 13; Lc 21,34-36.

72 X. Lc 22,40.46.

73 X. Lc 11,5-13.

74 X. Lc 18,1-8.

75 X. Lc 18,9-14.

76 X. Ga 14,13.

77 X. Ga 14,13-14.

78 X. Ga 14,23-26 ; 15,7.16 ; 16,13-15.23-27.

79 X. Mc 1,40-41.

80 X. Mc 5,36.

81 X. Mc 7,29.

82 X. Lc 23,39-43.

83 X. Mc 2,5.

84 X. Mc 5,28.

85 X. Lc 7,37-38.

86 Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 85, 1: CCL 39,1176 (PL 36,1081); x. Văn kiện trình bày và quy định Các Giờ Kinh phụng vụ, 7: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v. 1 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 24.

87 X. Lc 1,38.

88 X. Cv 1,14.

89 X. Ga 2,1-12.

90 X. Ga 19,25-27.

91 X. Lc 1,46-55.

Scroll to Top