TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” – “CHÚNG TÔI TIN” (26–184)
CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27–49)
CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50–141)
Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51–73)
Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74–100)
CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142–184)
Mục 2: Chúng tôi tin (166–184)
ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185–1065)
CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198–421)
Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199–421)
Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199–231)
Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268–278)
Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279–324)
CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422–682)
Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456–483)
Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484–511)
Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512–570)
Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574–594)
Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595–623)
Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624–630)
Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631–658)
Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632–637)
Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638–658)
Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659–667)
Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668–682)
CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683–1065)
Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687–747)
Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748–975)
Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751–780)
Tiết 2: Hội Thánh – Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781–810)
Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811–870)
Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871–945)
Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946–962) [1474–1477]
Tiết 6: Đức Ma-ri-a – Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963–975)
Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976–987)
Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988–1019)
CỬ HÀNH MẦU NHIỆM KI-TÔ GIÁO
ĐOẠN THỨ NHẤT: NHIỆM CỤC BÍ TÍCH (1076–1209)
CHƯƠNG I: MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG THỜI ĐẠI CỦA HỘI THÁNH (1077–1134)
Mục 1: Phụng vụ – Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh (1077–1112)
Mục 2: Mầu nhiệm Vượt Qua trong các bí tích của Hội Thánh (1113–1134)
CHƯƠNG II: CỬ HÀNH MẦU NHIỆM VƯỢT QUA TRONG CÁC BÍ TÍCH (1135–1209)
Mục 1: Cử hành phụng vụ của Hội Thánh (1136–1199)
Mục 2: Nhiều phụng vụ khác nhau và một mầu nhiệm duy nhất (1200–1209)
ĐOẠN THỨ HAI: BẢY BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH (1210–1690)
CHƯƠNG I: CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM KI-TÔ GIÁO (1212–1419)
Mục 1: Bí tích Rửa Tội (1213–1284)
Mục 2: Bí tích Thêm Sức (1285–1321)
Mục 3: Bí tích Thánh Thể (1322–1419)
CHƯƠNG II: CÁC BÍ TÍCH CHỮA LÀNH (1420–1532)
Mục 4: Bí tích Thống Hối và Giao Hòa (1422–1498)
Mục 5: Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (1499–1532)
CHƯƠNG III: CÁC BÍ TÍCH PHỤC VỤ SỰ HIỆP THÔNG (1533–1666)
Mục 6: Bí tích Truyền Chức Thánh (1536–1600)
Mục 7: Bí tích Hôn Phối (1601–1666)
CHƯƠNG IV: NHỮNG CỬ HÀNH PHỤNG VỤ KHÁC (1667–1690)
ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ
ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699–2051)
CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700–1876)
Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701–1715)
Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716–1729)
Mục 3: Sự tự do của con người (1730–1748)
Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749–1761)
Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762–1775)
Mục 6: Lương tâm luân lý (1776–1802)
Mục 7: Các nhân đức (1803–1845)
CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877–1948)
Mục 1: Cá vị và xã hội (1878–1896)
Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897–1927)
Mục 3: Công bằng xã hội (1928–1948)
CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949–2051)
Mục 1: Luật luân lý (1950–1986)
Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987–2029)
Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030–2051)
ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052–2557)
Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084–2141)
Mục 2: Điều răn thứ hai (2142–2167)
Mục 3: Điều răn thứ ba (2168–2195)
CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196–2557)
Mục 4: Điều răn thứ tư (2197–2257)
Mục 5: Điều răn thứ năm (2258–2330)
Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331–2400)
Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401–2463)
Mục 8: Điều răn thứ tám (2464–2513)
KINH NGUYỆN KI-TÔ GIÁO
ĐOẠN THỨ NHẤT: KINH NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG KI-TÔ HỮU (2558–2758)
CHƯƠNG I: MẶC KHẢI VỀ CẦU NGUYỆN (2566–2649)
Mục 1: Trong Cựu Ước (2568–2597)
Mục 2: Khi thời gian viên mãn (2598–2622)
Mục 3: Trong thời của Hội Thánh (2623–2649)
CHƯƠNG II: TRUYỀN THỐNG CẦU NGUYỆN (2650–2696)
Mục 1: Những nguồn mạch của kinh nguyện (2652–2662)
Mục 2: Con đường cầu nguyện (2663–2682)
Mục 3: Những người hướng dẫn cầu nguyện (2683–2696)
CHƯƠNG III: ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN (2697–2758)
Mục 1: Những cách diễn đạt việc cầu nguyện (2700–2724)
Mục 2: Cuộc chiến đấu của việc cầu nguyện (2725–2745)
Mục 3: Lời cầu nguyện trong Giờ của Chúa Giê-su (2746–2758)
ĐOẠN THỨ HAI: LỜI KINH CỦA CHÚA: KINH LẠY CHA (2759–2865)
Mục 1: “Bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng” (2761–2776)
Mục 2: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” (2777–2802)
I. “Người sẽ trở lại trong vinh quang” (668–677)
Đức Ki-tô đã hiển trị nhờ Hội Thánh… (668–670)
668450, 518
“Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,9). Việc Đức Ki-tô lên trời cho thấy nhân tính của Người cũng được tham dự vào quyền năng và uy quyền của chính Thiên Chúa. Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa: Người nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất. Người “vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được” vì Chúa Cha “đã đặt tất cả dưới chân Người” (Ep 1,20-22). Đức Ki-tô là Chúa của tất cả vũ trụ605 và của lịch sử. Nơi Người, lịch sử của con người, kể cả toàn bộ công trình tạo dựng, tìm gặp được “nơi quy tụ” của mình,606 tột đỉnh siêu việt của mình.
669792, 1088, 541
Là Chúa, Đức Ki-tô cũng là Đầu Hội Thánh, Thân Thể của Người.607 Được đưa lên trời và được tôn vinh sau khi chu toàn sứ vụ, Đức Ki-tô vẫn hiện diện nơi trần thế trong Hội Thánh của Người. Công trình cứu chuộc là nguồn mạch của quyền bính mà Đức Ki-tô thực thi trong Hội Thánh bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần.608 “Nước của Đức Ki-tô đã hiện diện một cách mầu nhiệm”609 trong Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời nơi trần thế.”610
6701042, 825, 547
Khởi từ cuộc Thăng Thiên, kế hoạch của Thiên Chúa bước vào giai đoạn hoàn thành. Chúng ta đang sống trong “giờ cuối cùng” (1 Ga 2,18).611 “Quả vậy, những thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta và sự canh tân trần gian đã được thiết lập một cách không thể đảo ngược, và trong thời đại này sự canh tân đó đã được tiền dự một cách hiện thực nào đó: thật vậy, Hội Thánh nơi trần gian được ghi dấu bằng sự thánh thiện thật, tuy còn bất toàn.”612 Nước Đức Ki-tô đã biểu lộ sự hiện diện của mình nhờ những dấu chỉ kỳ diệu613 đi kèm theo việc loan báo Nước đó nhờ Hội Thánh.614
… cho tới khi mọi sự quy phục Người (671–672)
6711043, 769, 773, 1043, 2046, 2817
Tuy nhiên, Nước Đức Ki-tô, đang hiện diện trong Hội Thánh của Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)615 do việc Vua ngự đến trần gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công,616 mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Ki-tô. Cho tới khi mọi sự quy phục Người,617 “cho tới khi có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế của mình, vốn là những điều thuộc thời đại này, vẫn mang hình dáng của thời đại chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên Chúa.”618 Vì vậy, các Ki-tô hữu cầu nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể,619 để Đức Ki-tô mau lại đến,620 bằng cách thưa với Người: “Lạy Chúa, xin ngự đến!” (Kh 22,20).621
672732, 2612
Đức Ki-tô, trước cuộc Thăng Thiên của Người, đã khẳng định rằng chưa đến giờ Người thiết lập Nước của Đấng Mê-si-a một cách vinh hiển mà Ít-ra-en mong đợi,622 Nước đó phải mang lại cho mọi người, theo lời các tiên tri,623 một trật tự vĩnh viễn của công lý, của tình yêu, và của hòa bình. Thời gian hiện tại, theo Chúa, là thời gian của Thần Khí và của việc làm chứng,624 nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằng nỗi khó khăn hiện tại625 và bằng sự thử thách của sự dữ,626 thời gian này không buông tha Hội Thánh,627 và khởi đầu cuộc chiến của những ngày sau cùng.628 Đây là thời gian của sự mong đợi và tỉnh thức.629
Việc Ngự đến vinh hiển của Đức Ki-tô, niềm hy vọng của Ít-ra-en (673–674)
6731040, 1048
Sau cuộc Thăng Thiên, việc Ngự đến trong vinh quang của Đức Ki-tô luôn gần kề,630 mặc dù chúng ta “không biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1,7).631 Biến cố cánh chung này có thể xảy ra bất cứ lúc nào,632 mặc dù chính biến cố đó cũng như cuộc thử thách cuối cùng phải xảy ra trước biến cố đó, còn được “trì hoãn.”633
674840, 58
Việc Ngự đến của Đấng Mê-si-a vinh hiển vào bất cứ lúc nào trong lịch sử tùy thuộc634 vào việc Người được nhận biết bởi “toàn thể Ít-ra-en”635 mà một phần dân ấy còn cứng lòng636 “không tin” (Rm 11,20) vào Chúa Giê-su. Thánh Phê-rô nói với người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem sau lễ Ngũ Tuần: “Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xóa bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy, thời kỳ an lạc mà Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Ngài sai Đấng Ki-tô Ngài đã dành cho anh em, là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su còn phải được giữ lại trên trời, cho đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ của Ngài mà loan báo tự ngàn xưa” (Cv 3,19-21). Thánh Phao-lô cũng nhắc lại điều đó: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11,15). Việc gia nhập của đông đủ người Do-thái637 vào ơn cứu độ của Đấng Mê-si-a, sau việc gia nhập đông đủ của các dân ngoại,638 sẽ làm cho dân Chúa đạt “tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,13), trong đó, “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
Cuộc thử thách cuối cùng của Hội Thánh (675–677)
675769
Trước cuộc Ngự đến của Đức Ki-tô, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng, làm lung lạc đức tin của nhiều tín hữu.639 Cuộc bách hại, luôn đi theo Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian,640 sẽ làm lộ rõ “mầu nhiệm sự dữ” dưới hình thức một sự đánh lừa về tôn giáo, có vẻ như mang đến cho người ta một giải pháp về các vấn đề của họ với giá phải trả là sự chối bỏ chân lý. Sự đánh lừa về tôn giáo ở mức cao nhất là của tên Phản Ki-tô, nghĩa là, của một chủ nghĩa Mê-si-a giả hiệu, trong đó con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Đấng Mê-si-a của Ngài đã đến trong xác phàm.641
6762425
Sự đánh lừa của tên Phản Ki-tô đã được phác họa trên trần gian mỗi khi người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là thuyết ngàn năm (millenarismus),642 nhất là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Mê-si-a đã bị tục hóa (messianismus saecularizatus), “đồi bại tự bản chất.”643
6771340, 2853
Hội Thánh chỉ tiến vào vinh quang Nước Trời sau cuộc Vượt Qua cuối cùng này, trong đó Hội Thánh đi theo Chúa của mình trong sự chết và sự sống lại của Người.644 Vì vậy, Nước Trời sẽ không được thực hiện bằng một chiến thắng của Hội Thánh trong lịch sử,645 theo một đà tiến từ dưới đi lên nào đó, nhưng bằng sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cuộc tấn công cuối cùng của sự dữ,646 sự chiến thắng đó làm cho Tân nương của Ngài từ trời xuống.647 Chiến thắng của Thiên Chúa trên sự nổi loạn của sự dữ sẽ mang hình thức cuộc Phán Xét cuối cùng,648 sau cuộc đảo lộn cuối cùng khắp vũ trụ của trần gian đang qua đi.649
II. “để phán xét kẻ sống và kẻ chết” (678–679) [1038–1041]
6781470
Chúa Giê-su, sau các Tiên tri650 và ông Gio-an Tẩy Giả,651 trong lời rao giảng của mình, đã loan báo cuộc Phán Xét vào ngày tận thế. Lúc đó những cách sống của mỗi người652 và sự kín nhiệm trong các tâm hồn653 được đưa ra ánh sáng. Lúc đó tội cứng lòng tin, tức là tội coi thường ân sủng do Thiên Chúa ban, sẽ bị kết án.654 Cách đối xử với đồng loại sẽ biểu lộ là người ta đã đón nhận hay đã từ chối ân sủng và tình yêu Thiên Chúa.655 Chúa Giê-su sẽ phán trong ngày tận thế: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
6791021
Đức Ki-tô là Chúa của sự sống vĩnh cửu. Thẩm quyền đầy đủ để xét xử một cách vĩnh viễn về các công việc và các tâm hồn của mọi người là thuộc về Người, với tư cách là Đấng Cứu Chuộc trần gian. Người “đã đạt được” quyền này nhờ thập giá của Người. Chúa Cha cũng “đã ban cho Người Con mọi quyền xét xử” (Ga 5,22).656 Nhưng Chúa Con không đến để xét xử, mà để cứu độ,657 và để ban sự sống Người có nơi chính mình.658 Qua việc từ chối ân sủng khi còn sống ở đời này, mỗi người tự xét xử chính mình,659 lãnh nhận tùy theo các công việc của mình,660 và cũng có thể tự kết án mình muôn đời khi từ chối Thần Khí tình yêu.661
Tóm lược (680–682)
680
Chúa Ki-tô đã hiển trị nhờ Hội Thánh, nhưng mọi sự ở trần gian này chưa quy phục Người. Chiến thắng của Nước Đức Ki-tô sẽ chỉ đến sau cuộc tấn công cuối cùng của các thế lực sự dữ.
681
Trong Ngày Phán Xét, lúc cùng tận trần gian, Đức Ki-tô sẽ đến trong vinh quang để hoàn thành cuộc chiến thắng vĩnh viễn của sự lành trên sự dữ, cả hai, như lúa tốt và cỏ lùng, đã cùng phát triển trong suốt dòng lịch sử.
682
Đức Ki-tô vinh hiển, khi ngự đến vào lúc cùng tận thời gian để phán xét kẻ sống và kẻ chết, sẽ làm tỏ lộ những điều kín nhiệm trong các tâm hồn và sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo các công việc của họ và tùy theo việc họ đã đón nhận hoặc từ chối ân sủng.
Chú thích
605 X. Ep 4,10; 1 Cr 15,24.27-28.
606 X. Ep 1,10.
607 X. Ep 1,22.
608 X. Ep 4,11-13.
609 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
610 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.
611 X. 1 Pr 4,7.
612 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
613 X. Mc 16,17-18.
614 X. Mc 16,20.
615 X. Mt 25,31.
616 X. 2 Tx 2,7.
617 X. 1 Cr 15,28.
618 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
619 X. 1 Cr 11,26.
620 X. 2 Pr 3,11-12.
621 X. 1 Cr 16,22; Kh 22,17.
622 X. Cv 1,6-7.
623 X. Is 11,1-9.
624 X. Cv 1,8.
625 X. 1 Cr 7,26.
626 X. Ep 5,16.
627 X. 1 Pr 4,17.
628 X. 1 Ga 2,18; 4,3; 1 Tm 4,1.
629 X. Mt 25,1-13; Mc 13,33-37.
630 X. Kh 22,20.
631 X. Mc 13,32.
632 X. Mt 24,44; 1 Tx 5,2.
633 X. 2 Tx 2,3-12.
634 X. Rm 11,31.
635 X. Rm 11,26; Mt 23,39.
636 X. Rm 11,25.
637 X. Rm 11,12.
638 X. Rm 11,25; Lc 21,24.
639 X. Lc 18,8; Mt 24,12.
640 X. Lc 21,12; Ga 15,19-20.
641 X. 2 Tx 2,4-12; 1 Tx 5,2-3; 2 Ga 7; 1 Ga 2,18.22.
642 X. Sanctum Officium, Decretum de millenarismo (19-7-1944): DS 3839.
643 X. ĐGH Pi-ô XI, Thông điệp Divini Redemptoris (19-3-1937): AAS 29. (1937) 65-106; CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 20-21: AAS 58 (1966) 1040-1042.
644 X. Kh 19,1-9.
645 X. Kh 13,8.
646 X. Kh 20,7-10.
647 X. Kh 21,2-4.
648 X. Kh 20,12.
649 X. 2 Pr 3,12-13.
650 X. Đn 7,10; Ge 3,4; Ml 3,19.
651 X. Mt 3,7-12.
652 X. Mc 12,38-40.
653 X. Lc 12,1-3; Ga 3,20-21; Rm 2,16; 1 Cr 4,5.
654 X. Mt 11,20-24; 12,41-42.
655 X. Mt 5,22; 7,1-5.
656 X. Ga 5,27; Mt 25,31; Cv 10,42; 17,31; 2 Tm 4,1.
657 X. Ga 3,17.
658 X. Ga 5,26.
659 X. Ga 3,18;12,48.
660 X. 1 Cr 3,12-15.
661 X. Mt 12,32; Dt 6,4-6; 10,26-31.