ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

“Thưa Thầy, tôi phải làm gì…?” (2052-2055)

20521858

“Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” Để trả lời cho người thanh niên đặt câu hỏi, Chúa Giê-su nêu lên trước tiên sự cần thiết phải nhận biết Thiên Chúa như “Đấng tốt lành mà thôi”, như Điều Thiện tuyệt hảo và như nguồn mạch của mọi điều tốt lành. Rồi Chúa Giê-su tuyên bố với người đó: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.” Và Người liệt kê các điều răn về tình yêu đối với người lân cận: “Ngươi không được giết người, ngươi không được ngoại tình, ngươi không được trộm cắp, ngươi không được làm chứng gian, ngươi phải thờ cha kính mẹ.” Sau cùng, Chúa Giê-su tóm tắt các điều răn kể trên một cách tích cực rằng: “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình” (Mt 19,16-19).

2053

(1968, 1973) Chúa Giê-su còn thêm vào câu trả lời đầu tiên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời; rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Câu trả lời này không hủy bỏ câu trả lời trước. Muốn đi theo Đức Ki-tô, phải tuân giữ các điều răn. Luật cũ không bị bãi bỏ,1 nhưng con người được mời gọi tìm thấy lại Lề luật nơi con người của Thầy mình, Đấng chu toàn Lề luật cách trọn hảo. Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, lời kêu gọi của Chúa Giê-su ngỏ với anh thanh niên giàu có, để đi theo Người với lòng vâng phục của người môn đệ và tuân giữ các điều răn, còn được kết hợp với lời kêu gọi sống nghèo khó và khiết tịnh.2 Các lời khuyên Phúc Âm không thể bị tách biệt khỏi các điều răn.

2054581

Chúa Giê-su đã lấy lại mười điều răn, nhưng Người đã biểu lộ sức mạnh của Thần Khí đang tác động nơi các mặt chữ ấy; Người đã rao giảng sự công chính “vượt trên sự công chính của các kinh sư và những người Pha-ri-sêu”,3 cũng như sự công chính của các dân ngoại.4 Người cho thấy tất cả những đòi hỏi của các điều răn. “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21-22).

2055129

Khi người ta đặt cho Người câu hỏi: “Điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36), Chúa Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi: đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40).5 Mười Điều Răn phải được giải thích dưới ánh sáng của điều răn, tuy hai nhưng là một, là đức mến, đó là sự viên mãn của Lề Luật:

“Các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại, yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,9-10).

Mười Điều Răn trong Thánh Kinh (2056-2063)

2056700, 62

Từ “Decalogus” theo sát mặt chữ có nghĩa là “Mười lời” (Xh 34,28; Đnl 4,13; 10,4). “Mười lời” này Thiên Chúa đã mặc khải cho dân Ngài trên núi thánh. Ngài đã viết “Mười lời” này “tự ngón tay Ngài”,6 khác với các mệnh lệnh khác do ông Mô-sê viết.7 Mười lời này, theo một nghĩa rất đặc biệt, làm thành những lời của Thiên Chúa. Những lời đó được lưu truyền cho chúng ta trong sách Xuất Hành8 và sách Đệ Nhị Luật.9 Từ thời Cựu Ước, các Sách Thánh luôn quy chiếu về “Mười lời”,10 nhưng trong Tân Ước ý nghĩa đầy đủ của những lời đó sẽ được mặc khải nơi Chúa Giê-su Ki-tô.

20572084, 2170

Trước hết, Mười Điều Răn phải được hiểu trong bối cảnh của cuộc Xuất Hành, là biến cố giải phóng vĩ đại của Thiên Chúa, ở trung tâm của Giao Ước cũ. Dù được viết với tính cách những mệnh lệnh tiêu cực, những cấm đoán, hay với tính cách những mệnh lệnh tích cực (như “ngươi hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi”), “Mười lời” chỉ ra những điều kiện cho một đời sống đã được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Mười Điều Răn là con đường của sự sống:

“Anh (em) phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Ngài, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Ngài, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc” (Đnl 30,16).

Sức mạnh giải thoát này của Mười Điều Răn xuất hiện, thí dụ trong điều răn nghỉ ngày sa-bát, áp dụng cho cả các ngoại kiều và các nô lệ:

“Ngươi hãy nhớ, ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ, uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó” (Đnl 5,15).

20581962

“Mười lời” tóm tắt và công bố Lề Luật của Thiên Chúa: “Những lời ấy, Chúa đã phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi, từ trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt, Ngài nói lớn tiếng và không thêm gì cả. Ngài đã viết những lời ấy trên hai bia đá, và ban cho tôi” (Đnl 5,22). Vì vậy, hai bia này được gọi là “Chứng Ước” (Xh 25,16). Những bia đó chứa đựng các điều khoản của Giao Ước đã được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Các “Bia Chứng Ước” (Xh 31,18; 32,15; 34,29) này phải được đặt vào “Hòm Bia” (Xh 25,16; 40,1-2).

2059707, 2823

“Mười lời” được Thiên Chúa công bố trong một cuộc thần hiện (“Chúa đã phán với anh em, mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa”: Đnl 5,4). Mười lời này thuộc về mặc khải, Thiên Chúa tỏ cho biết về chính Ngài và về vinh quang của Ngài. Khi ban các điều răn, Thiên Chúa ban tặng chính mình Ngài và thánh ý của Ngài. Khi tỏ cho biết các thánh ý Ngài, Thiên Chúa mặc khải chính mình cho dân Ngài.

206062

Việc ban tặng các điều răn và Lề Luật là thành phần của Giao Ước được ký kết bởi Thiên Chúa với dân Ngài. Theo sách Xuất Hành, việc mặc khải “Mười lời” được ban giữa việc chuẩn bị lập giao ước11 và việc kết thúc giao ước12 – sau khi dân đã cam kết “thi hành” điều Chúa phán và “tuân phục” điều đó.13 Mười Điều Răn chỉ được lưu truyền sau khi nhắc nhớ đến Giao Ước. (“Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã lập một Giao Ước với chúng ta tại núi Horeb”: Đnl 5,2).

20612086

Các điều răn nhận được ý nghĩa đầy đủ của nó trong Giao Ước. Theo Thánh Kinh, cách hành động theo luân lý của con người có được đầy đủ ý nghĩa của nó trong và nhờ Giao Ước. Điều thứ nhất của “Mười lời” nhắc lại rằng chính Thiên Chúa đã yêu thương dân Ngài trước:

“Chính vì hình phạt tội lỗi là sự kiện chuyển từ địa đàng của sự tự do sang tình trạng nô lệ của trần gian này, mà câu đầu tiên của Mười Điều Răn, lời thứ nhất của các lệnh truyền của Thiên Chúa, nói đến tự do: ‘Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ (Xh 20,2; Đnl 5,6).”14

2062142, 2002

Các điều răn theo nghĩa hẹp chỉ giữ vai trò thứ yếu; chúng diễn tả những hệ luận của việc con người thuộc về Thiên Chúa như Giao Ước quy định. Đời sống luân lý là lời đáp cho khởi xướng đầy yêu thương của Chúa. Đó là sự nhận biết, sự suy phục Thiên Chúa và thờ phượng tạ ơn. Đó là sự cộng tác vào dự định mà Thiên Chúa đang theo đuổi trong lịch sử.

2063878

Giao Ước và cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với con người cũng được xác nhận qua sự kiện là tất cả các bổn phận đều được phát biểu ở ngôi thứ nhất (“Ta là Chúa…”) và nói với một chủ thể khác (“Ngươi…”). Trong tất cả các điều răn của Thiên Chúa, đại từ nhân xưng ở số ít để chỉ người đón nhận. Khi bày tỏ thánh ý cho toàn dân, Thiên Chúa cũng đồng thời bày tỏ thánh ý của Ngài cho riêng từng cá nhân một:

“Chúa truyền dạy phải yêu mến Thiên Chúa và dạy giữ sự công bằng đối với người lân cận, để con người khỏi bất chính và bất xứng trước mặt Thiên Chúa. Như vậy, nhờ Mười Điều Răn, Thiên Chúa huấn luyện để con người sống trong tình bằng hữu với Ngài và hòa thuận với người lân cận… Và vì vậy, những lời của Mười Điều Răn vẫn trường tồn đối với chúng ta (các Ki-tô hữu), những lời đó không bị hủy bỏ, nhưng được mở rộng và triển nở nhờ cuộc Ngự đến của Chúa trong xác phàm.”15

Mười Điều Răn trong Truyền thống Hội Thánh (2064-2068)

2064

Trung thành với Sách Thánh và theo gương Chúa Giê-su, Truyền thống Hội Thánh nhìn nhận Mười Điều Răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu.

2065

Từ thời thánh Augustinô, “Mười Điều Răn” đã có một vị trí quan trọng trong việc dạy giáo lý cho dự tòng và tín hữu. Vào thế kỷ XV, Mười Điều Răn quen được diễn tả bằng những công thức tích cực, theo văn vần, dễ nhớ, vẫn còn thông dụng ở nhiều nơi tới ngày nay. Các sách giáo lý của Hội Thánh thường trình bày luân lý Ki-tô Giáo theo thứ tự của “Mười Điều Răn.”

2066

Việc phân chia và đánh số các điều răn có thay đổi theo dòng thời gian. Sách Giáo Lý này dựa theo cách phân chia của thánh Augustinô đã trở thành truyền thống trong Hội Thánh Công Giáo. Các hệ phái Luther cũng theo cách phân chia này. Các Giáo phụ Hi lạp phân chia hơi khác; cách phân chia đó còn gặp thấy trong các Giáo Hội Chính thống và các cộng đoàn Cải cách.

20671853

Mười Điều Răn nêu ra các đòi hỏi của lòng mến Chúa yêu người. Ba điều răn đầu đề cập đến tình yêu đối với Thiên Chúa, và bảy điều răn sau, đến tình yêu đối với người lân cận.

“Cũng như Chúa đã đúc kết tất cả Lề Luật và các Tiên tri vào trong hai điều răn của lòng yêu mến…, thì cũng vậy, Mười Điều Răn được ban trong hai bảng. Ba điều được khắc trên một bảng, và bảy điều trên bảng kia.”16

20681993, 888

Công đồng Tri-đen-ti-nô dạy rằng: các Ki-tô hữu buộc phải giữ Mười Điều Răn, và người đã được công chính hóa cũng có bổn phận phải tuân giữ các điều răn ấy.17 Công đồng Va-ti-ca-nô II cũng khẳng định: “Các Giám mục vì là những vị kế nhiệm các Tông Đồ, nhận từ nơi Chúa… sứ vụ dạy dỗ muôn dân và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, để mọi người được cứu độ nhờ đức tin, Phép Rửa và việc chu toàn các Điều Răn.”18

Tính thống nhất của Mười Điều Răn (2069)

20692534

Mười Điều Răn tạo thành một tổng thể thống nhất không thể tách biệt. Mỗi “lời” quy chiếu về từng lời và về tất cả các lời khác; các lời tương thuộc lẫn nhau. Hai Bảng Luật soi sáng cho nhau, hợp thành một tổng thể thống nhất hữu cơ. Vi phạm một điều răn là vi phạm tất cả các điều răn khác.19 Không thể tôn trọng người khác mà không chúc tụng Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa của họ. Không thể tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương tất cả mọi người là thụ tạo của Ngài. Mười Điều Răn thống nhất đời sống đối thần với đời sống xã hội của con người.

Mười Điều Răn và luật tự nhiên (2070-2071)

20701955

Mười Điều Răn thuộc về mặc khải của Thiên Chúa; đồng thời dạy chúng ta biết nhân tính đích thực của con người. Mười Điều Răn làm sáng tỏ những bổn phận thiết yếu, do đó, một cách gián tiếp, cho thấy những quyền căn bản gắn liền với bản tính của nhân vị. Mười Điều Răn là một cách trình bày đặc sắc của “luật tự nhiên”:

“Từ nguyên thủy, Thiên Chúa đã ghi sâu trong lòng người các lệnh truyền của luật tự nhiên – mà nếu không thi hành thì không được cứu độ -. Sau đó Ngài chỉ cần nhắc lại các điều luật ấy cho họ. Đó chính là Mười Điều Răn.”20

20711960, 1777

Mười Điều Răn là mặc khải của Thiên Chúa, dù với lý trí con người có thể tự biết được, nhưng để hiểu biết đầy đủ và chắc chắn về các đòi hỏi của luật tự nhiên, loài người tội lỗi cần đến mặc khải này:

“Trong tình trạng tội lỗi, ánh sáng lý trí bị lu mờ và ý chí bị sai lệch, con người cần đến một trình bày đầy đủ về các điều khoản của Mười Điều Răn.”21 Chúng ta biết được các điều răn của Thiên Chúa nhờ mặc khải thần linh được trình bày trong Hội Thánh và nhờ tiếng nói của lương tâm.

Tính bắt buộc của Mười Điều Răn (2072-2073)

20721858, 1958

Vì nêu lên những bổn phận căn bản của con người đối với Thiên Chúa và đối với người lân cận, Mười Điều Răn, trong nội dung chính yếu của nó, mặc khải những nghĩa vụ quan trọng. Mười Điều Răn, một cách căn bản, là bất biến và có giá trị bắt buộc mọi lúc và mọi nơi. Không ai có thể miễn chuẩn Mười Điều Răn, đã được Thiên Chúa ghi khắc trong trái tim con người.

2073

Việc tuân phục các điều răn cũng bao hàm những bắt buộc mà theo chất liệu tự nó là nhẹ. Chẳng hạn điều răn thứ năm cấm nhục mạ kẻ khác bằng lời nói; điều này không thể là một lỗi phạm nghiêm trọng nếu không do các hoàn cảnh hoặc ý hướng của người nói lời nhục mạ đó.

“Không có Thầy, anh em không làm gì được” (2074)

20742732, 521

Chúa Giê-su nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Hoa trái được nói đến trong lời này là sự thánh thiện của một đời sống được sinh sôi nảy nở nhờ kết hợp với Đức Ki-tô. Khi chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta truyền thông các mầu nhiệm của Người và tuân giữ các điều răn của Người, thì chính Người là Đấng Cứu Độ đến trong chúng ta để yêu thương Cha Người và các anh em Người, cũng là Cha chúng ta và các anh em chúng ta. Nhờ Thần Khí, bản thân Chúa Giê-su trở thành quy luật sống động và nội tâm cho cách hành động của chúng ta. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

Tóm lược (2075-2082)

2075

“Tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” – “Nếu anh… muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,16-17).

2076

Qua cách hành động và lời giảng dạy của Người, Chúa Giê-su đã xác nhận giá trị trường tồn của Mười Điều Răn.

2077

Việc ban Mười Điều Răn được thực hiện giữa Giao Ước được Thiên Chúa ký kết với dân Ngài. Các Điều Răn của Thiên Chúa nhận được ý nghĩa đích thực của chúng trong Giao Ước và nhờ Giao Ước.

2078

Trung thành với Thánh Kinh và theo gương Chúa Giê-su, Truyền thống Hội Thánh nhìn nhận Mười Điều Răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu.

2079

Mười Điều Răn tạo thành một tổng thể thống nhất hữu cơ, trong đó mỗi “lời” hay ”điều răn” đều quy chiếu về toàn thể. Vi phạm một điều răn là vi phạm toàn bộ lề luật.22

2080

Mười Điều Răn là một cách diễn đạt đặc sắc của luật tự nhiên. Chúng ta biết được Mười Điều Răn nhờ mặc khải của Thiên Chúa và nhờ lý trí của con người.

2081

Trong nội dung căn bản của chúng, Mười Điều Răn đưa ra những bắt buộc quan trọng. Tuy nhiên, việc tuân giữ các điều răn này cũng bao hàm những bắt buộc mà theo chất liệu tự nó là nhẹ.

2082

Điều gì Thiên Chúa truyền dạy, Ngài đều ban ân sủng để chúng ta có thể thực hiện.


Mục lục


Chú thích

1 X. Mt 5,17.

2 X. Mt 19,6-12.21.23-29.

3 X. Mt 5,20.

4 X. Mt 5,46-47.

5 X. Đnl 6,5; Lv 19,18.

6 X. Xh 31,18; Đnl 5,22.

7 X. Đnl 31,9.24.

8 X. Xh 20,1-17.

9 X. Đnl 5,6-22.

10 X. chẳng hạn, Hs 4,2; Gr 7,9; Ed 18,5-9.

11 X. Xh 19.

12 X. Xh 24.

13 X. Xh 24,7.

14 Ôrigiênê, In Exodum homilia 8,1: SC 321,242 (PG 12,350).

15 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 16, 3-4: SC 100,566-570 (PG 7,1017-1018).

16 Thánh Augustinô, Sermo 33, 2: CCL 41,414 (PL 38,208).

17 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, canones 19-20: DS 1569-1570.

18 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 24: AAS 57 (1965).

19 X. Gc 2,10-11.

20 Thánh I-rê-nê, Adversus haereses, 4, 15, 1: SC 100,548 (PG 7,1012).

21 Thánh Bô-na-ven-tu-ra, In quattuor libros Sententiarum, 3, 37, 1, 3: Opera omnia, v. 3 (Ad Claras Aquas 1887) 819-820.

22 X. Gc 2,10-11.

Scroll to Top