Dẫn Nhập Kinh Thánh Tân Ước [CGKPV]

I. THIÊN CHÚA NÓI VỚI CON NGƯỜI

Con người thời nay ngây ngất trước những vật thể vô cùng nhỏ và vô cùng lớn trong vũ trụ. Họ nghiên cứu những hạt tử nhỏ bé nhất và dự đoán được tuổi của vũ trụ. Ðối với nhiều người, vũ trụ mang dấu vết của Thiên Chúa, đó là nơi Thiên Chúa tỏ mình cho con người (x. Rm 1,19-20). Nhưng hình ảnh Thiên Chúa ta thấy qua vũ trụ còn nhiều nét chưa rõ ràng. Thiên Chúa khôn ngoan và nhân hậu không chỉ bằng lòng với việc tỏ mình qua tự nhiên, Người còn muốn ngỏ lời với con người đã được dựng nên theo hình ảnh Người và đã gieo vào lòng họ nỗi khao khát khôn nguôi là được nhìn thấy Thiên Chúa.

Ðể tỏ mình cho toàn thể nhân loại, Người đã chọn một nhóm người để làm thành một dân tộc, dân Ít-ra-en. Người huấn luyện họ để họ cảm nhận được tình thương của Người và đáp lại bằng một lòng trung tín sắt son. Người đã đi vào dòng lịch sử của dân Ít-ra-en để mặc khải bằng Lời và bằng các biến cố. Thưở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các ngôn sứ (Dt 1,1). Thiên Chúa đã nói với con người qua con người và bằng ngôn ngữ loài người. Những nghiên cứu mới về ngữ học trong các thập niên vừa qua đã làm nổi bật tầm quan trọng của động từ “nói”. Thật vậy, khi khám phá ra những giá trị độc đáo của ngôn ngữ và những chiều kích phong phú của nó, con người mới thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa khi Người muốn mạc khải bằng ngôn ngữ loài người.

Thiên Chúa đã nói qua miệng các ngôn sứ, nhưng những lời đó lại nhằm chuẩn bị cho Ngôi Lời, Con của Người xuất hiện vào thời viên mãn. Ngay cả những biến cố trong lịch sử dân Ít-ra-en, tuy có giá trị và thế đứng riêng biệt, nhưng lại hướng về cái sắp đến. Chính Thiên Chúa đã đặt trong mỗi biến cố một mầm mống siêu vượt chính mình, để chuẩn bị cho Biến cố của mọi biến cố là Ðức Ki-tô. Dường như, nhờ một thời gian dài suy tư, chính người Do-thái cũng nhận ra điều đó. Họ thấy rằng những biến cố quá khứ chỉ là sự biểu lộ một phần ý định của Thiên Chúa ở một cấp độ bất toàn và càng lúc Người càng mặc khải trọn vẹn hơn ý định của Người. Biến cố xuất Ai-cập hướng đến việc giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Giao Ước Xi-nai bằng máu những con bò hướng đến một giao ước mới được ghi khắc trong lòng người (Gr 31,31-34). Ðất hứa Canaan chỉ là hình bóng mờ nhạt của Thành Giê-ru-sa-lem mới. Ngay cả những nhân vất trong lịch sử như vua, ngôn sứ, thủ lãnh, tư tế cũng xuất hiện như những người dọn đường cho một Ðấng khác cao vượt hơn họ.

II. CÁC SÁCH TÂN ƯỚC VÀ NHỮNG THỂ VĂN CHÍNH

Trong lịch sử dân Ít-ra-en, Thiên Chúa đã lập giao ước với tổ phụ Áp-ra-ham (St 15,18) và qua ông Mô-sê, Người đã lập giao ước với cả dân tộc này (Xh 24,8). Trong niềm tin vào Ðức Giê-su Ki-tô, các nhà thần học Ki-tô Giáo đầu tiên đều có chung một xác tín, đó là Ðức Giê-su khai mở giai đoạn chung cục của lịch sử cứu độ. Nơi Người mọi lời hứa với cha ông được thành tựu, và niềm hy vọng từ bao đời nay được Thiên Chúa cho thành hiện thực. Một giao ước mới đã thành hình, giao ước trong máu Ðức Ki-tô (1 Cr 11,25), đổ ra một lần là đủ (Dt 9,23-26). Thánh Phao-lô đã gọi luật Mô-sê là giao ước cũ (2 Cr 3,14). Giao ước cũ và giao ước mới có một sự duy nhất, vì do cùng một Thiên Chúa là tác giả. Giao ước cũ đạt được sự hoàn tất viên mãn của mình nơi Ðức Giê-su.

Các Ki-tô hữu thế hệ đầu tiên, cũng như các người Do-thái bây giờ, coi Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa; nhưng Kinh Thánh lúc đó mới chỉ là phần mà ngày nay chúng ta gọi là Cựu Ước thôi. Phải đợi một thời gian lâu sau, những sách mà nay ta gọi là các sách Tân Ước mới được nhìn nhận là Lời Chúa, ngang hàng với các sách khác của Cựu Ước. Chúng ta sẽ bàn về diễn tiến của việc xác định thư quy trong phần sau.

Tập sách Tân Ước gồm 27 cuốn, được viết bằng tiếng Hy-lạp phổ thông trong thời bấy giờ. tuy gọi là cuốn, nhưng thực ra có những thư chỉ dài khoảng một hai trang (Gio-an 2, Gio-an 3, Phi-lê-môn). Ta có thể tạm chia các sách Tân Ước làm bốn loại, dựa trên bốn thể văn khác nhau.

1. Thể văn TIN MỪNG

Bốn sách đầu tiên của bộ Tân Ước được viết theo thể văn này, đó là các sách Tin Mừng (còn gọi là sách Phúc Âm) theo thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô, thánh Lu-ca và thánh Gio-an. “trong toàn bộ Kinh Thánh và thậm chí ngay cả Tân Ước nữa, các sách Tin Mừng có tính ưu việt trên hết, vì những sách đó là những chứng từ tuyệt vời về cuộc đời và lời giáo huấn của Ngôi Lời nhập thể, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta” (MK 18). Công đồng Va-ti-ca-nô II đã coi các sách Tin Mừng như những chứng từ thành văn của các Tông Ðồ hay của những vị đã sống bên các Tông Ðồ ghi chép lại do ơn linh hứng của Thánh Thần. Ðó là một chứng từ đức tin mang hai đặc điểm sau đây. Trước hết, chứng từ này được viết lại sau những biến cố nền tảng của Ki-tô Giáo: phục sinh, thăng thiên và hiện xuống. Các biến cố này như những luồng sáng chiếu dọi vào toàn bộ cuộc đời Ðức Giê-su, khiến cho các Tông Ðồ có một hiểu biết thâm trầm hơn về các việc làm và lời nói của Người. Kế đó, chứng từ này mang đậm nét đặc thù của từng tác giả. Khi soạn thảo các sách Tin Mừng, mỗi tác giả đã phải chọn lựa những yếu tố đã được truyền khẩu hay được ghi lại thành văn, cộng thêm những hiểu biết riêng của mình mà làm nên một tác phẩm. Tác phẩm này được viết cho một giáo đoàn nhất định và với một mục đích nhất định.

Có một câu hỏi được đặt ra một cách gay gắt trong suốt thế kỷ XX, đó là câu hỏi về lịch sử tính của các sách Tin Mừng, hay nói khác đi: những gì các sách Tin Mừng kể lại có thật không? Công đồng Va-ti-ca-nô II đã long trọng khẳng định lịch sử tính của các sách Tin Mừng: các sách này trung thành truyền lại những gì Ðức Giê-su thực sự đã làm và đã dạy, các tác giả thánh luôn luôn truyền đạt cho chúng ta những điều chân thật về Ðức Giê-su (x. MK 19). Nhưng vì các sách Tin Mừng là những chứng từ đức tin, nên ta đừng hiểu lịch sử tính ở đây theo nghĩa là các tác giả đã ghi âm hay chụp lại những gì Ðức Giê-su đã nói và làm vào chính lúc xảy ra. Các sách Tin Mừng còn có một bề dày phong phú hơn nhiều. Ðó vừa là chứng từ về Ðức Giê-su lịch sử, vừa là chứng từ về niềm tin của các Tông Ðồ sau phục sinh, và cũng là công trình soạn thảo của các tác giả thánh.

Vậy thể văn Tin Mừng là một thể văn đặc biệt, nó có lịch sử tính nhưng lại không phải là một bài phóng sự hay tường thuật tại chỗ những gì đang xảy ra. Các sách Tin Mừng được viết sau những năm dài nghiền ngẫm, cầu nguyện và sống, không phải của một cá nhân, mà thường là của cả một cộng đoàn Giáo Hội địa phương. Bốn sách Tin Mừng là bốn cái nhìn về cùng một thực tại là Ðức Giê-su, bốn cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn trọn vẹn về Con Thiên Chúa.

2. Thể văn LỊCH SỬ TÔN GIÁO

Sách Công Vụ Tông Ðồ thuộc thể văn này. Sách này kể lại buổi đầu của Giáo Hội và công cuộc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc. Ðây không phải là một tài liệu thuần túy lịch sử như kiểu hồi ký hay niên sử, nhưng cũng không phải là một sách giáo lý thuần túy, vì mang nhiều yếu tố lịch sử. Có thể nói Công Vụ là một lịch sử nhằm giáo huấn. Tác giả Lu-ca đã viết sách này cho những tín hữu gốc dân ngoại để nói lên rằng sứ điệp cứu độ được gởi đến cho mọi người, trước hết là người Do-thái, sau là dân ngoại. Các diễn từ chiếm gần một phần ba sách Công Vụ, dĩ nhiên đây không phải là nguyên văn các bài giảng, bởi vì chúng quá ngắn, lắm khi lại quá giống nhau. Thánh Lu-ca đã soạn ra những diễn từ này dựa trên những yếu tố trong các bài giảng của các Tông Ðồ. Còn các trình thuật cũng được ghi lại một cách khá tự do vì thời xưa các sử gia không quá bận tâm đến tính chính xác của biến cố xảy ra. Lu-ca cho chúng ta một hình ảnh tốt đẹp về Giáo Hội sơ khai, ông cố tránh nhắc đến những khía cạnh kém đẹp của Giáo Hội, như vụ bất đồng ý kiến giữa hai Tông Ðồ Phê-rô và Phao-lô ở An-ti-ô-khi-a (Gl 2,11-14) chẳng hạn. Thế nên có lẽ phải coi những bản tóm lược ở Cv 2,42-47; 4,32-35; 5,12-16 là những bức họa lý tưởng hơn là một mô tả về thực tại của Giáo Hội ở Giê-ru-sa-lem.

3. Thể văn THƯ TÔN GIÁO CHÍNH THỨC

Tân Ước có 21 lá thư, một số lớn của thánh Phao-lô, số còn lại của các vị Tông Ðồ khác. Ðây là những lá thư thực sự vì được gửi đến cho những cá nhân như Ti-mô-thê, Ti-tô, Phi-lê-môn, hay cho những Giáo Hội ở đó đây trong đế quốc Rô-ma. Các thư phát xuất từ những hoàn cảnh cụ thể, nhằm đáp ứng những nhu cầu cụ thể như cũng cố niềm tin, khích lệ trong cơn bách hại, xác định những điểm giáo lý, uốn nắn những lệch lạc, ngăn ngừa những sai lầm… Các thư này thường được đem đọc công khai trong buổi họp cộng đoàn tín hữu (1 Tx 5,27), và cũng có thể được trao đổi giữa các Giáo Hội (Cl 4,16). Vì các thư trong Tân Ước không phải chỉ là những thư thuần túy riêng tư, cũng không phải là những luận thư (épitre) theo kiểu của các triết gia Hy-lạp, nên chúng ta có thể coi chúng thuộc về thể văn “thư tôn giáo chính thức”. Ðây là tài liệu do một nhóm hay một vị có thế giá gửi cách chính thức và công khai cho những cá nhân hay cho những cộng đoàn nhất định, nhằm một mục đích chủ yếu có tính tôn giáo.

Như các sách Tin Mừng, các thư được soạn thảo do ơn linh hứng của Chúa Thánh thần. Tuy không có những trình thuật về đức Giê-su nhưng các thư lại “trình bày càng ngày càng rõ hơn giáo lý đích thực của Người” (MK 20). Có thể nói các thư phản ánh việc sống lời Chúa của các cộng đoàn dân Chúa ở thế kỷ đầu, với những khó khăn riêng; tuy nhiên ta vẫn có thể khám phá thấy nơi các thư một sứ điệp luôn mới mẻ cho đức tin của mình, miễn là biết thích ứng sứ điệp đó cho thời đại mình đang sống.

4. Thể văn KHẢI HUYỀN

Sách cuối cùng trong bộ Tân Ước là sách Khải Huyền. Ðây là một thể văn thịnh hành trong văn chương Do-thái trong khoảng thời gian hai thế kỷ trước đến một thế kỷ SCN. Thể văn này sử dụng nhiều hình ảnh, con số, tên gọi và màu sắc mang ý nghĩa tượng trưng. Ðể hiểu được ý nghĩa của chúng, ta cần quy chiếu về Cựu Ước và các sách Khải Huyền khác, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen. Sách Khải Huyền được viết để củng cố niềm hy vọng các tín hữu đang bị bách hại vì đức tin. Tác giả sách này đã phác họa một loạt những thị kiến có tính tượng trưng để mô tả cuộc giao tranh trong vũ trụ giữa sự thiện và sự ác, giữa Ðức Ki-tô và Xa-tan, cuối cùng Ðức Ki-tô và các thánh sẽ toàn thắng. Ðó là động lực giúp người tín hữu vững tâm đợi chờ sự can thiệp của Thiên Chúa. Như thế sách Khải Huyền vẫn có giá trị cho mọi thời, vì lịch sử vẫn còn là cuộc tranh chấp cho đến ngày Ðức Ki-tô trở lại. Tuy nhiên chúng ta phải tránh thái độ coi sách này như một thứ “Sấm Trạng Trình” và đem áp dụng vào những biến cố lịch sử đang hay sẽ xảy ra trên thế giới.

III. THƯ QUY TÂN ƯỚC VÀ CÁC SÁCH NGỤY THƯ

Như đã nói ở trên, các Ki-tô hữu thời sơ khai coi bộ sách thánh của Do-thái giáo là bộ Kinh Thánh duy nhất mà họ tôn kính. Trong khoảng một thế kỷ đầu của Ki-tô Giáo (30-130 SCN), bộ sách này không hề được gọi là các sách Cựu Ước, bởi lẽ bộ Tân Ước chưa thành hình. Ngày nay, các Ki-tô hữu, dù là Công Giáo, Chính Thống hay Tin Lành, đều nhìn nhận 27 sách trong bộ Tân Ước là sách thánh, là Kinh Thánh, có giá trị như hay thậm chí còn hơn cả bộ sách thánh mà người Do-thái quen gọi là “Luật và các ngôn sứ”. Ðể Giáo Hội Ðông Phương và Tây Phương đi tới việc nhìn nhận này, cần cả một thời gian dài mấy thế kỷ. Chúng ta không ghi lại đây những diễn biến phức tạp của lịch sử, chỉ phác thảo một vài nét chính.

Trên hết là vị trí trung tâm của Ðức Giê-su trong Ki-tô Giáo. Tất cả đều quy về Người, những lời nói và việc làm của Người bày tỏ khuôn mặt của chính Thiên Chúa ở một mức độ siêu việt chưa từng thấy. Sau khi Ðức Giê-su về trời, nhịp cầu duy nhất nối liền các Ki-tô hữu với Ðức Giê-su là các Tông Ðồ, những chứng nhân về toàn bộ cuộc đời trần thế của Người. Các Tông Ðồ chủ yếu làm chứng bằng lời rao giảng (Cv 6,2-4; Rm 10,14-15), nhờ đó đức tin được khơi dậy và nuôi dưỡng trong lòng các tín hữu.

Có hai yếu tố khiến cho các Ki-tô hữu nghĩ đến chuyện phải viết lại những chứng từ về Ðức Giê-su. Trước hết là sự bành trướng của Ki-tô Giáo sau quyết định của hội nghị ở Giê-ru-sa-lem năm 49 (Cv 15). Cả một thế giới bao la của dân ngoại mở ra, Giáo Hội không còn chỉ đóng khung ở quanh Giê-ru-sa-lem, nhưng đã vươn tới những miền xa tắp. Các Tông Ðồ phải liên tục đi nhiều nơi nên việc liên lạc bằng thư từ với các Giáo Hội trở nên cần thiết. Các thư của thánh Phao-lô là một thí dụ về việc này. Kế đó là việc các Tông Ðồ dần dần trở nên già yếu và qua đời. Làm sao bảo tồn được những chứng từ về lời nói và việc làm của Ðức Giê-su? Hơn nữa, nhu cầu huấn giáo cũng đòi hỏi việc sắp xếp lại những chứng từ truyền khẩu cho có hệ thống. Thế nên đã có những sưu tập, truyền khẩu cũng như thành văn; đây là những chất liệu cho các tác giả viết Tin Mừng sau này.

Trong khoảng thời gian hơn một thế kỷ, đã xuất hiện nhiều tác phẩm của các Ki-tô hữu. Vấn đề được đặt ra rõ nét từ giữa thế kỷ II là vấn đề xác định xem đâu là danh sách những tác phẩm cần được bảo tồn và coi như sách thánh, nói cách khác, đó là xác định thư quy của Tân Ước. Có một vài tiêu chuẩn hướng dẫn công việc này:

Tác phẩm phải bắt nguồn từ các Tông Ðồ thì mới được nhận vào thư quy. Thư gửi tín hữu Do-thái và sách Khải Huyền mãi đến thế kỷ III vẫn còn trong vòng tranh luận, bởi lẽ có nơi không tin thánh Phao-lô và thánh Gio-an là tác giả của chúng. Ngày nay người ta hiểu “tác giả” ở đây không nhất thiết phải là người đã cầm bút để viết nên tác phẩm, nhưng có thể chỉ là người đã có liên hệ và ảnh hưởng trên tác phẩm. Dù sao, đối với Giáo Hội các thế kỷ đầu, tông đồ tính của tác phẩm là điều quan trọng. Như các ngôn sứ xưa đã loan báo Ðức Giê-su nhờ ơn linh hứng (2 Pr 1,20-21), thì Nhóm Mười Hai (và Phao-lô) giờ đây cũng làm chứng về sự hoàn tất viên mãn, nhờ cùng một ơn linh hứng đó (Cv 2,17-18).

Phần lớn các sách Tân Ước đều được viết cho những cộng đoàn Ki-tô hữu nhất định, nên lịch sử và tầm quan trọng của một cộng đoàn cũng giúp nhiều cho việc bảo tồn một tác phẩm và thậm chí cho việc nhận tác phẩm đó vào thư quy. Dường như Tin Mừng Mát-thêu được gửi cho các cộng đoàn ở Xy-ri-a, và họ đã làm tốt nhiệm vụ này. Các Giáo Hội ở Hy-lạp và Tiểu Á có lẽ đã bảo trì các tác phẩm của thánh Phao-lô và thánh Gio-an. Giáo Hội ở Rô-ma đã bảo trì Tin Mừng Mác-cô và thư gửi tín hữu Rô-ma.

Tác phẩm phải phù hợp với quy luật đức tin. Chẳng hạn như Tin Mừng của thánh Phê-rô không được đưa vào thư quy vì có thể dẫn đến lạc giáo.

Sau đây là một vài thời điểm đặc biệt trong lịch sử hình thành thư quy:

Ðần tiên rất có thể là tập thư Phao-lô đã được gom lại và sử dụng trong Giáo Hội. Từ đầu thế kỷ II, nhiều tác giả Ki-tô Giáo cho thấy họ đã biết đến một số lớn các thư Phao-lô, có lẽ là nhờ các thư này được thu thập và phổ biến dựa trên uy tín lẫy lừng của ngài. Tuy nhiên, trước đầu thế kỷ II, không có dấu hiệu cho thấy các thư này được coi là sách thánh như các sách Cựu Ước. Dần dần toàn bộ thư Phao-lô được các Giáo Hội ở thế kỷ II công nhận, vì có tông đồ tính.

Ở thế kỷ I, các Tin Mừng chiếm chỗ đứng mờ nhạt so với các thư Phao-lô. Trước năm 140, không thấy có tài liệu nào nói đến tập sách Tin Mừng, nhưng từ nửa sau thế kỷ II có nhiều chứng từ hơn. Thánh Giustinô nói đến sự kiện các Tin Mừng được đọc vào Chúa Nhật, được coi như tác phẩm của các Tông Ðồ (hay những đồ đệ của các ngài) và được dùng như Kinh Thánh. Càng lúc bốn Tin Mừng càng tỏ ra trổi vượt hơn các sách khác vì tính chân thực trong những lời chứng về Ðức Giê-su. Có lẽ khoảng năm 170, bốn Tin Mừng đã được nhận vào thư quy.

Một thời điểm quan trọng trong lịch sử thư quy là chọn lựa của ông Mácxion (14). Ông này gạt bỏ toàn bộ Cựu Ước, chỉ chấp nhận một Tin Mừng duy nhất (bản ngắn của Lu-ca) và những thư của một Tông Ðồ duy nhất (10 thư của Phao-lô). Thái độ của Mác-xi-on rõ ràng là ngược với Giáo Hội xưa nay, nên nó đã gây ra những phản ứng mạnh mẽ, nhất là từ thánh Giustinô và thánh I-rê-nê. Các Giáo Hội địa phương bắt đầu đưa ra thư quy riêng của mình.

Vào đầu thế kỷ III, khắp nơi đều nhìn nhận bốn sách Tin Mừng, 13 thư của Phao-lô (trong đó không có thư Do-thái), Công Vụ, thư thứ nhất của thánh Phê-rô và phần nào thư thứ nhất của thánh Gio-an nữa. Các sách còn lại chưa đạt được sự nhất trí trọn vẹn. Các cuộc tranh luận còn kéo dài.

Dần dần có một sự nhất trí. Ở Ðông Phương, năm 367, thánh Athanasiô, Giám mục A-lê-xan-ri-a chấp nhận thư quy gồm 27 cuốn như ta ngày nay. Ở Tây Phương, “sắc lệnh của đức Ða-ma-xô” do công nghị Rô-ma công bố (năm 382) cũng chấp nhận như vậy. Thư quy coi như đã được ấn định vào cuối thế kỷ IV. Năm 1546, Công đồng Tren-tô đã tái khẳng định thư quy của toàn bộ Kinh Thánh.

Ta thấy một tác phẩm được nhận vào thư quy vì nó là bản văn được linh hứng, nhưng ta chỉ biết chắc chắn là nó được linh hứng khi nó được nhận vào thư quy. Giáo Hội trước khi nhận vào đã phải suy nghĩ về truyền thống được coi là bắt nguồn từ các Tông Ðồ, đó là tiêu chuẩn để chọn lựa.

Khi thư quy được xác định, một số lớn tác phẩm không được kể vào thư quy này. trong đó có cả những tác phẩm nổi tiếng, thậm chí đã từng được một số vị có thẩm quyền công nhận là sách thánh, như sách Giáo Huấn của mười hai Tông Ðồ (cuối thế kỷ I hay đầu thế kỷ II), Người Mục Tử của Héc-mát (đầu thế kỷ II, Rô-ma), thư của Banaba, hai thư của Cơ-lê-men-tê. Các tác phẩm này được bảo tồn cẩn thận và ngày nay vẫn được xếp vào các tác phẩm có giá trị của Giáo Hội buổi đầu.

Nhưng cũng có những tác phẩm khác bị loại bỏ, không được Giáo Hội dùng làm nền tảng cho giáo lý của mình, và vì thế không được dùng trong phụng vụ, ta quen gọi là ngụy thư. Ngụy thư có hình thức và nội dung khá gần với các sách Tân Ước. Tuy nhiên cũng phải nhận là một số ngụy thư có chứa đựng những sai lạc về giáo lý, thí dụ nghiêng về ảo thân thuyết (docétisme, thuyết này không nhìn nhận nhân tính của Ðức Ki-tô) hay bài bác hôn nhân. Phần nhiều các ngụy thư đều ẩn dưới danh nghĩa các vị Tông đồ.

Ta có thể chia các ngụy thư thành bốn loại như các sách trong Tân Ước:

Các sách Tin Mừng: Tin Mừng của thánh Phê-rô (tìm thấy một mảnh ở Ai-cập vào năm 1886), Tin Mừng của thánh Tô-ma, nay được chia làm 114 câu trong đó có 79 câu gần giống với Tin Mừng Nhất Lãm… Các Tin Mừng này ít nhiều mang dấu vết của phái ngộ giáo (gnosticisme), phái này cho rằng chỉ có việc giác ngộ mới đưa con người đến ơn cứu độ. Ngoài ra còn có Tin Mừng thời thơ ấu của thánh Tô-ma và Tiền Tin Mừng của thánh Gia-cô-bê, hai tác phẩm này mang nhiều yếu tố huyền hoặc, lạ lùng.

Các sách Công Vụ: Công Vụ của thánh An-rê chịu ảnh hưởng của ngộ giáo qua việc lên án hôn nhân và nhấn mạnh đến bản tính thiêng liêng của con người. Công vụ của thánh Gio-an, Công Vụ của thánh Phao-lô, Công Vụ của thánh Phê-rô, Công Vụ của thánh Tô-ma. Nói chung tác giả các sách Công Vụ thích khai thác những yếu tố kỳ diệu, lạ lùng trong cuộc đời vị Tông Ðồ mà họ muốn ca ngợi.

Các thư: Thư thứ ba gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thư gửi tín hữu ở Lao-đi-ki-a, Thư của các Tông Ðồ. Nội dung của các thư này không có gì đặc sắc (trừ Thư của các Tông Ðồ) và giống với những bài luận bàn về thần học hơn là những lá thư.

Các sách khải huyền: sách Khải Huyền của thánh Phê-rô kể lại việc Ðức Giê-su chỉ cho các môn đệ thấy những miền ở thế giới bên kia, chỗ ở của kẻ dữ và hình phạt họ phải chịu. Còn sách Khải Huyền của thánh Phao-lô lại xoay quanh thị kiến của thánh nhân được nói đến ở 2 Cr 12,2.

IV. BẢN VĂN TÂN ƯỚC VÀ KHOA PHÊ BÌNH BẢN VĂN

Hiên nay chúng ta không còn giữ được một bản văn Kinh Thánh nào do chính tác giả viết, hay nói khác đi, bản văn gốc không còn nữa. Tuy nhiên chúng ta lại có rất nhiều bản chép Tân Ước bằng tiếng Hy-lạp và những bản dịch Tân Ước cổ bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ðây là những bản chép tay thuộc nhiều thế kỷ trước khi xuất hiện kỹ thuật in. Các bản chép này hiện đang nằm rải rác ở các thư viện trên thế giới.

Các bản chép tay Tân Ước được viết trên giấy cói hay giấy da.

Giấy cói làm từ cây papyrus, một loại cây cói hay sậy mọc ở các vùng đầm lầy bên Ai-cập, cao từ 2 đến 3 mét. Trong hai thế kỷ đầu, Tân Ước thường được chép trên loại giấy này. Tuy không bên bằng giấy da, nhưng nhờ khí hậu khô nóng ở Ai-cập, loại giấy này vẫn còn tồn tại. Hiện nay còn chừng 90 bản giấy cói, đa số gốc Ai-cập, chép trong khoảng giữa thế kỷ II và thế kỷ VIII. Ðây chỉ là những mảnh của Tân Ước nhưng lại có giá trị cao, vì có những bản giấy cói cổ hơn những bản giấy da lâu đời nhất. Các bản giấy cói được đánh số và mang ký hiệu P. Sau đây là một vài bản quan trọng:

Bản P52 (Papyrus Rylands) chỉ gồm Ga 18,31-33.37-38. Ðây là bản chép Tân Ước cổ nhất hiện có. Nó được chép khoảng năm 135, nay được lưu trữ tại thư viện John Rylands (Anh).

Bản P46, khoảng năm 200, gồm có các thư của thánh Phao-lô, trừ những thư mục vụ. Bản này gồm 86 tờ giấy cói được đóng lại thành tập (codex).

Giấy da làm bằng da, được sử dụng nhiều từ thế kỷ II SCN. Bản văn Tân Ước đuọc chép trên giấy da dưới dạng chữ hoa (majuscules) hay chữ thảo (minuscules). Như giấy cói, các tờ giấy da có thể được đóng thành tập (codex) hay nối lại với nhau thành một miếng dài rồi cuộn lại (volumen). Sau đây là một vài tập chữ hoa quan trọng:

Bản Va-ti-ca-nô (Codex Vaticanus) mang ký hiệu là B, được chép vào thế kỷ IV. Bản này bằng tiếng Hy-lạp gồm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, nhưng Tân Ước thì bị thất lạc phần cuối. Hiện được lưu trữ tại thư viện Va-ti-ca-nô.

Bản Xi-nai (Codex Sinaiticus), thế kỷ IV, tìm thấy tại Tu viện thánh Ca-ta-ri-na ở núi Xi-nai vào năm 1844. Bản này cũng bằng tiếng Hy-lạp gồm một phần Cựu Ước và toàn bộ Tân Ước, thậm chí còn thêm Thư của Ba-na-ba và một phần tác phẩm Người Mục Tử của Héc-mát. Bản này mang ký hiệu là S, hiện để tại Luân Ðôn.

Ðây là hai bản nổi tiếng hơn cả trong số khoảng 250 bản chữ hoa chép trên giấy da, trong khoảng từ thế kỷ III đến thế kỷ X.

Như đã nói ở trên, các bản chép tay hiện có thể chỉ là những bản sao hay bản dịch từ bản gốc; chúng cũng có thể chỉ là những bản chép lại từ các bản sao. Khi đối chiếu những bản chép tay Tân Ước hiện có với nhau, ta thấy chúng có khá nhiều điểm dị biệt, cũng gọi là dị bản. Phần lớn là những dị biệt nhỏ liên quan đến các chi tiết văn phạm, từ vựng hay trật tự các từ trong câu. Tuy nhiên cũng có những dị biệt quan trọng, có ảnh hưởng đến ý nghĩa của cả đoạn.

Các dị biệt trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Trước hết, bản văn gốc của Tân Ước đã được các ký lục sao đi chép lại nhiều lần trong bao thế kỷ. Khi sao chép, khó tránh khỏi những sai sót vì bất cẩn hay vì thiếu khả năng. Thêm vào đó có những ký lục, do ý hướng tốt, đã đôi khi sửa đổi bản văn mẫu mà họ cho là viết sai, viết không hay, hoặc thiếu rõ ràng về mặt thần học. Ngoài ra, khi dùng các trích đoạn Tân Ước trong phụng vụ, người ta cũng thường làm cho chúng trở nên dễ đọc hơn, hay dung hòa chúng với bản văn song song của một tác giả khác trong Tân Ước.

Như thế Lời Chúa trong bộ sách Tân Ước cũng chịu một số phận như những tài liệu cổ khác, đó là bị biến đổi ít nhiều qua dòng thời gian. Nhiêm vụ của khoa phê bình bản văn là phục chế, tái tạo lại hình thức nguyên thủy của bản văn gốc bằng cách dựa vào những bản chép tay hiện có.

1. trước hết là thu thập mọi bản Tân Ước chép tay, cả những bản Hy-lạp lẫn những bản dịch cổ bằng tiếng La-tinh, Xy-ri-a, hay Ai-cập v.v… Ðôi khi có những bản dịch lại sát với bản gốc hơn cả bản Xi-nai hay bản Va-ti-ca-nô, bởi lẽ chúng được dịch từ các bản Hy-lạp còn cổ hơn hai bản này.

Các giáo phụ thường trích dẫn Tân Ước trong các tác phẩm của mình. Những trích dẫn này cũng có thể giúp khoa phê bình tìm lại được bản văn Tân Ước ở tình trạng rất gần với bản gốc.

Tuy nhiên, dựa vào các bản dịch cổ hay các trích dẫn của các giáo phụ để mong tìm lại bản văn gốc là một việc tế nhị. Ðọc một từ trong bản dịch, chúng ta không dễ biết chắc được từ tương ứng bằng tiếng Hy-lạp trong bản gốc. Còn những trích dẫn thì quá ngắn và nhất là các giáo phụ lại thường trích dẫn dựa theo trí nhớ chứ không trích nguyên văn.

2. Sau khi đã thu thập các tài liệu trên đây, khoa phê bình bản văn sẽ cố gắng sắp xếp lại để tiện dụng cho việc tiếp cận với nguyên bản. Các nhà chuyên môn nhận thấy rằng các bản chép tay hiện có tuy nhiều, nhưng có thể chia thành một số nhóm chính. Mỗi nhóm tượng trưng cho một loại bản văn mà ta có thể xác định được nguồn gốc của nó một cách tương đối chắc chắn. Sau đây là ba loại bản văn chính yếu:

Bản văn “Ai-cập” hay còn gọi là bản văn A-lê-xan-ri-a, vì nó bắt nguồn từ vùng A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập, vào trước năm 300. Các bản chữ hoa quan trọng nhất như bản Xi-nai (S) và bản Va-ti-ca-nô (B) đều thuộc loại bản văn này. Từ nửa sau thế kỷ XIX, ở Tây Phương, các ấn bản Tân Ước thường dựa theo loại bản văn này. Dù có những khiếm khuyết, nhưng nó được các nhà chuyên môn nhìn nhận là loại bản văn có giá trị cao, ngắn gọn và ít có những sửa đổi hay dung hòa.

Bản văn “Xy-ri-a”, còn gọi là bản văn An-ti-ô-khi-a hay bản Phổ Thông. Người ta thường cho rằng nó bắt nguồn từ vùng An-ti-ô-khi-a vào khoảng năm 300. Nhiều bản chữ hoa thuộc thế kỷ IX và thế kỷ X, cũng như phần lớn các bản chữ thảo thuộc loại bản văn này. Ở Ðông Phương ngày nay, bản văn này vẫn được sử dụng. Còn ở Tây Phương, các ấn bản đầu tiên của Tân Ước đều đã dựa trên bản văn này, nó được coi như bản văn được công nhận (textus receptus). Mãi đến thế kỷ XIX, nó mới nhường chỗ cho bản văn A-lê-xan-ri-a nói trên. Ðặc tính của loại bản văn này là trau chuốt và sáng sủa, có những sửa đổi vừa phải, có lẽ để thích nghi với việc dùng trong phụng vụ. Loại bản văn này không có giá trị phê bình cao như loại trên.
Bản văn “Tây Phương”. Bản văn này được gọi như vậy từ thế kỷ XVIII, thì thoạt tiên người ta biết đến nó qua những bản dịch La-tinh cổ (nửa sau thế kỷ II) hay những bản song ngữ Hy-lạp – La-tinh (như bản Bê-đa, ký hiệu là D, khoảng thế kỷ IV). Nhưng giờ đây người ta khám phá thấy nó cũng đã có mặt ở Ðông Phương từ lâu. Bản văn này thiên về việc giải thích dài dòng để làm rõ nghĩa, và hay sửa đổi bản gốc cho có sự tương hợp giữa các đoạn song song.

Vậy vấn đề là phải phân loại và lượng giá các bản văn, cũng như xác định vị trí của chúng trong không gian và thời gian. Nhờ đó ta có thể nhận ra đâu là những hình thức cổ nhất của bản văn, nghĩa là những hình thức dễ gần với bản gốc hơn.

3. Công việc trên đây là nhiệm vụ của khoa phê bình ngoại tại (critique externe). Khoa này còn cần sự trợ giúp của khoa phê bình nội tại nữa (critique interne). Trước những dị bản, tức là những chỗ mà các bản chép không đồng nhất với nhau, khoa này sẽ giúp ta chọn dị bản nào có khả năng gần với bản gốc hơn, nhờ một số quy tắc. Sau đây là một vài quy tắc tiêu biểu:

Chọn bản nào khó hiểu hơn, miễn là nó không mâu thuẫn với văn mạch, vì người chép thường có khuynh hướng làm cho bản văn trở nên dễ hiểu hơn.

Chọn dị bản nào ngắn hơn, vì người chép có khuynh hướng giải thích dài dòng.

Chọn dị bản phù hợp với ngôn ngữ và tư tưởng của tác giả hơn.

Trong các bản văn song song, chọn dị bản nào còn giữ lại được nét riêng, hơn là dị bản đã bị dung hòa.

Những quy tắc trên đây không có tính tuyệt đối, nên cần áp dụng cách uyển chuyển và thận trọng, nhất là khi quy tắc này dẫn đến một kết luận trái với quy tắc kia. Ðể tránh rơi vào thái độ chủ quan, ta chỉ nên dùng khoa này như một bổ túc cho khoa phê bình đạt được trong khoảng 150 năm qua, hiện nay bản văn của Tân Ước có thể coi như đã được xác định.

V. BỐI CẢNH TÂN ƯỚC

Bộ Tân Ước đã được viết ra trong một hoàn cảnh đặc biệt, vào lúc đế quốc Rô-ma đang đặt nền đô hộ trên nhiều phần đất, trong đó có xứ Pa-lét-ti-na. Ðể có thể hiểu rõ các bản văn hơn, chúng ta cần biết về bối cảnh xã hội, chính trị, tôn giáo của đế quốc Rô-ma cũng như của xứ Pa-lét-ti-na, nơi Ðức Giê-su, Ngôi Lời làm người, đã sinh sống.

1. Ðế quốc Rô-ma

Ðế quốc Rô-ma là một đế quốc rộng lớn, gồm những nước vây quanh Ðịa trung Hải. Ðế quốc này trực tiếp kế thừa đế quốc Hy-lạp do A-lê-xan-đê đại đế gây dựng nên. Tuy mang lớp vỏ Rô-ma nhưng trong thực chất vẫn là nền văn minh Hy-lạp.

Ngôn ngữ. Ngôn ngữ chung của cả đế quốc là tiếng Hy-lạp phổ thông (koine). Tuy nhiên ở phía tây của đế quốc (Ý, Tây Ban Nha…) người ta vẫn nói tiếng La-tinh. Tại Pa-lét-ti-na, tiếng A-ram được dùng trong sinh hoạt thường ngày, còn tiếng Híp-ri đã trở thành một thứ cổ ngữ, chỉ dùng trong phụng vụ.

Hành chính. Ðế quốc chia thành nhiều tỉnh. Có những tỉnh đã được hoàn toàn bình định, đặt dưới quyền một viên thống đốc (proconsul), các tỉnh này được gọi là tỉnh thuộc nghị viện. Có những tỉnh còn chưa ổn định, đặt dưới quyền vị khâm sai do hoàng đế bổ nhiệm, chúng được gọi là tỉnh thuộc hoàng đế. Ngoài ra còn có những vùng ngoại lệ. Ai-cập là tư hữu của hoàng đế nên trực thuộc vị này. Vùng Giu-đê cũng theo một quy chế đặc biệt, nó được giao cho một viên tổng trấn, ông này phải lệ thuộc vị khâm sai xứ Xy-ri-a.

Giao thông. Ðịa Trung Hải tấp nập thuyền bè đi lại, đặc biệt trong khoảng tháng 3 đến tháng 11 là thời gian có gió thuận lợi. Ngoài ra có một hệ thống đường xá hoàn chỉnh trong khắp đế quốc, nhờ đó việc chuyển quân cũng như việc chuyển thư được dễ dàng và nhanh chóng.

Luật pháp. Xét về mặt pháp lý, có ba hạng người: những người có quyền công dân Rô-ma, những người tự do nhưng không có quyền công dân Rô-ma và các nô lệ. Ðược làm công dân Rô-ma là một lợi thế lớn, vì được miễn một số thuế và được hưởng một số đặc ân về mặt pháp lý, thí dụ như không bị đánh đòn trước tòa, hay có thể kháng án lên hoàng đế (Cv 16,37-39; 25,12). Quyền công dân Rô-ma có được là do thừa kế bởi cha mẹ hoặc do mua bằng một món tiền lớn (Cv 22,25-29), hoặc do hoàng đế thưởng công. Còn đối với những người chỉ là công dân thường, như Ðức Giê-su chẳng hạn, thì phải theo luật địa phương, ngoại trừ những gì liên quan đến luật hình sự hay thuế khóa. Con số các nô lệ khá đông. Số phận của họ không giống nhau, vì còn tùy thuộc vào phong tục của từng vùng, tùy tính khí của chủ và tùy công việc họ làm. Nô lệ ở vùng quê rất cực khổ, còn những nô lệ có khả năng chuyên môn ở thành phố thì đuọc ưu đãi hơn. Họ có thể được trả tự do hay phải chuộc lại sự tự do bằng cách trả một món tiền cho chủ. Các nô lệ không có quyền gì về mặt pháp lý.

Thuế khóa. Người dân trong đế quốc phải nộp thuế nhà đất, thuế lợi tức, riêng những công dân thường còn phải nộp thuế thân, chỉ trừ người già và trẻ em là được miễn. Ðức Giê-su đã từng được hỏi về vấn đề nộp loại thuế này (Mc 12,14). Ngoài ra còn phải nộp những loại thuế gián thu khác. Riêng người Do-thái còn nộp thuế đền thờ hàng năm (một món tiền bằng hai ngày lương, Mt 17,24) và nộp thuế thập phân. Nói chung, gánh nặng thuế khóa không phải là nhỏ.

Dân cư. Vào thời Ðức Giê-su, đế quốc đang hồi cực thịnh. Dân số khoảng 50 triệu. Quân đội ít nhưng tinh nhuệ. Có ba thành phố lớn. Rô-ma là trung tâm đầu não của cả đế quốc, có khoảng một triệu dân, trong số đó có nhiều người thuộc giới lãnh đạo. A-lê-xan-ri-a là một thành phố cảng lớn ở Ai-cập, phía nam Ðịa Trung Hải. Ðây còn là một trung tâm văn hóa, có thư viện rất nỗi tiếng vào thời đó. Kiều dân Do-thái chếm gần một phần ba dân số ở A-lê-xan-ri-a. Cuối cùng là An-ti-ô-khi-a, thủ đô của xứ Xy-ri-a. Ki-tô Giáo phát triển rất sớm tại vùng đất này, cũng chính tại đây lần đầu tiên các tín hữu được mang danh là Ki-tô hữu (Cv 11,26).

Tôn giáo. Trước khi kỷ nguyên Ki-tô Giáo bắt đầu ít lâu, người ta coi hoàng đế Rô-ma như những bậc thần linh. Có những hoàng đế chỉ khuyến khích việc thờ các hoàng đế đã băng hà, nhưng cũng có những hoàng đế chấp nhận để người dân thờ mình. Việc thờ phượng này hẵn đã đặt các Ki-tô hữu đầu tiên trước một câu hỏi: làm sao vẫn là một công dân tốt dù không chấp nhận chuyện thờ lạy hoàng đế? Vấn đề nóng bỏng này sẽ được phản ánh trong chương 17 của sách Khải Huyền.

Ngoài việc thờ hoàng đế, người dân còn thờ các thần khác. Tuy nhiên tôn giáo chỉ giới hạn ở việc tế tự. Người ta dâng các sản phẩm của đất đai hay sát tế các thú vật. Một phần con vật được thiêu trên bàn thờ, phần khác được chia cho các tư tế và tín đồ hay đem bán ngoài chợ (từ đó nảy sinh vấn đề có được phép mua thịt này để ăn không, 1 Cr 8). Ðời sống tôn giáo còn thấm nhập vào các sinh hoạt của một đô thị. Mỗi thành phố hay quốc gia thường có một vị thần bảo trợ: thần A-thê-na của A-thê-na, thần A-tê-mi của Ê-phê-xô, thần Baan của Xy-ri-a…

Ngoài ra còn phải kể đến các tôn giáo bí truyền, thí dụ đạo thờ thần I-xít và Ô-xi-rít. Người muốn nhập đạo phải trải qua những thử thách rồi mới được nhận nghi thức khai tâm; qua nghi thức đầy bí mật này, người ấy được coi như đã bước vào cuộc sống mới, được thần hóa nhờ tham dự vào sự sống thần linh.

Cuối cùng, các hệ thống triết học như chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa khắc kỷ cũng đưa ra những giải pháp nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc.

2. Xứ Pa-lét-ti-na

Vào thời Ðức Giê-su, vùng đất Pa-lét-ti-na gồm có ba phần: Ga-li-lê ở phía bắc, Sa-ma-ri ở giữa, và Giu-đê ở phía nam. Phía tây là Ðịa Trung Hải, phía đông là dòng sông Gio-đan chảy từ hồ Ga-li-lê xuống biển chết. Thiên Chúa đã chọn mảnh đất nhỏ bé này làm nơi diễn ra lịch sử cứu độ toàn thể nhân loại. Con Thiên Chúa đã trở nên một người Do-thái, đảm nhận toàn bộ dòng lịch sử của dân tộc Người, một dân tộc sau khi bị lưu đầy ở Ba-by-lon lại rơi vào sự thống trị của người Batư, rồi đến người Hy-lạp và sau cung là người Rô-ma.

a. Chính trị

Trước việc vua An-ti-ô-khô IV (175-164 TCN) xúc phạm đền thờ, anh em nhà Ma-ca-bê đã vùng lên khởi nghĩa và cuố cùng đã giành lại được độc lập cho đất nước trong khoảng gần một thế kỷ. Ðó là triều đại nhà Át-mô-nê (142-63 TCN). Vào cuối triều đại này, có sự tranh giành quyền làm vua và làm thượng tế giữa hai anh em Hiếc-ca-nô và A-rít-tô-bu-lô, điều này đã nên cớ cho tướng Pompê của Rô-ma chiếm thành thánh (năm 63), mở đầu cho giai đoạn Rô-ma đô hộ.

Ðức Giê-su mở mắt chao đời khi hoàng đế Au-gút-tô đã trị vì đế quốc Rô-ma được 20 năm, ông này khai mở một thời kỳ tương đối ổn định trên toàn phần đất của đế quốc rộng hơn ba triệu cây số vuông.

Riêng ở Pa-lét-ti-na, nghị viên Rô-ma đã đặt Hê-rô-đê, còn gọi là Hê-rô-đê Cả, làm vua từ năm 40 TCN, nhưng phải đợi đến năm 37 ông này mới chiếm được Giê-ru-sa-lem và cai trị ở đó. Hê-rô-đê không phải là người Do-thái, ông đã giết những người thân với nhà Át-mô-nê để bảo vệ ngôi vàng. Cũng vì tính đa nghi, ông còn giết cả người vợ Do-thái là bà Ma-ri-am-mê cũng như ba trong số các con trai của ông. Dưới thời của ông, thượng hội đồng Do-thái mất hết cả ảnh hưởng; chính ông tự cho mình có quyền bổ nhiệm và cách chức thượng tế. Khi Ðức Giê-su sinh ra (vào năm 6 hay 7 TCN) thì Hê-rô-đê đã ở vào những năm cuối đời. Theo Tin Mừng Mát-thêu, Người đã phải trốn qua Ai-cập vì bị Hê-rô-đê lùng bắt (Mt 2,13). Có nhiều công trình được xây dựng ở khắp nơi trong nước dưới thời Hê-rô-đê; nhất là từ năm 20 TCN, ông đã cho trùng tu lại đền thờ nhỏ bé được xây sau thời lưu đày (x. Mc 13,1).

Khi vua Hê-rô-đê qua đời năm 4 TCN, vương quốc được chia cho ba người con trai. Hê-rô-đê An-ti-pa được làm tiểu vương vùng Ga-li-lê và vùng Pê-rê (Lc 3,1). Chính ông này đã giết Gio-an Tẩy Giả vì Gio-an không chấp nhận việc ông lấy vợ của người anh là Hê-rô-đê Phi-líp-phê (Mt 14,4). Ông cũng là người nhúng tay ít nhiều vào vụ án Ðức Giê-su (Lc 23,6-16). Ông đã xin Rô-ma phong vương cho mình, nhưng rốt cuộc ông đã bị hoàng đế Ca-li-gu-la cất chức năm 39 SCN. Người con khác là Phi-líp-phê (không phải là Hê-rô-đê Phi-líp-phê) được làm tiểu vương các vùng Ðông Bắc của hồ Ga-li-lê (còn gọi là hồ Ti-bê-ri-a). Cuối cùng là Ác-khê-lao (Mt 2,22), người mà vua Hê-rô-đê Cả muốn truyền ngôi vua cho, nhưng Rô-ma không chấp thuận, chỉ cho ông cai quản vùng Giu-đê, Sa-ma-ri và I-đu-mê. Vì bị người Do-thái và Sa-ma-ri khiếu nại, Ác-khê-lao đã bị Rô-ma hạ bệ năm 6 SCN. Phần lãnh thổ của ông được giao cho tổng trấn Rô-ma, từ đây chế độ cai trị trực tiếp của người Rô-ma được thiết lập trên đất Giu-đê.

Trong số các tổng trấn đầu tiên, phải kể đến Phi-la-tô (26-36 SCN), ông này chịu trách nhiệm về cái chết của Ðức Giê-su xảy ra vào năm 30. Ông bị người Do-thái căm ghét vì có những hành vi khiêu khích, coi thường tôn giáo của họ. Sau vụ ra lệnh tàn sát nhiều người xứ Sa-ma-ri, Phi-la-tô bị cách chức. Khi Cơ-lau-đi-ô lên làm hoàng đế vào năm 41, ông dẹp bỏ chức tổng trấn và đưa một người bạn ông là cháu của Hê-rô-đê Cả lên làm vua: đó là vua Ác-ríp-pa I, Pa-lét-ti-na lại trở về với chế độ tổng trấn và mang tên chính thức là Giu-đê. Có hai vị tổng trấn liên hệ ít nhiều đến Phao-lô, đó là Phê-lích (Cv 23,24) và Phét-tô, ông này đã gửi Phao-lô đến Rô-ma để được xét xử ở đó với tư cách là công dân Rô-ma (Cv 25,12).

Từ thời tổng trấn Phê-lích (52-60), các cuộc nổi loạn trong dân Do-thái đã trở nên thường xuyên hơn và mảnh liệt hơn. Tháng sáu năm 66, cuộc xung đột bùng nổ và gặp sự đàn áp mạnh mẽ của người Rô-ma. Vào lễ Vượt Qua năm 70, tướng Ti-tô đem bốn quân đoàn vây hãm Giê-ru-sa-lem. Tháng tám năm 70, đền thờ bị chiếm và thiêu hủy. Từ đó Giu-đê trở thành một tỉnh thuộc hoàng đế giống như tỉnh Xy-ri-a.

Chỉ hơn nửa thế kỷ sau, người Do-thái lại nổi dậy một lần nữa (132-135) khi hoàng đế Hát-ri-a-nô ban chiếu chỉ cấm việc cắt bì. Cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan sau khi đã kháng cự ác liệt với quân Rô-ma. Chính ở vị trí cũ của đền thờ, người ta xây một ngôi đền kính thần Dớt. Từ năm 135, tỉnh Giu-đê được gọi là tỉnh Xy-ri-a Pa-lét-ti-na.

b. Kinh tế

Pa-lét-ti-na có diện tích khoảng 20.000 km vuông, với dân số thời đó ước chừng 600.000 người. Dọc theo bờ biển Ðịa Trung Hải là những bình nguyên màu mỡ. Ở Ga-li-lê cũng như ở vùng Sa-ma-ri và Giu-đê, có những cao nguyên nhiều sỏi đá, không thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài ra phải kể đến vùng thung lũng sông Gio-đan, có chỗ thấp hơn 200 mét so với mặt biển. Mùa mưa từ tháng mười đến tháng ba, nước mưa được giữ cẩn thận để dùng trong mùa nắng.

Pa-lét-ti-na là một nước nông nghiệp. Ngũ cốc được trồng chủ yếu ở Ga-li-lê. Lúa mì, lúa mạch ở đây còn dùng để cung ứng cho thủ đô Giê-ru-sa-lem, nhất là vào các dịp lễ lớn. Cũng có nhiều loại cây ăn trái trong số đó phải kể đến cây chà là ở vùng Giê-ri-khô. Cây vả dễ trồng và được dùng để xuất khẩu. Cây nho trồng ở khắp nơi trong nước, vừa cho trái để ăn vừa dùng để làm rượu nho, một số đồ uống thông dụng. Cây ô-liu cũng là một cây hết sức quen thuộc ở Pa-lét-ti-na, cây này cho dầu ăn, dầu thơm và cả dầu dùng trong phụng tự nữa.

Ngành chăn nuôi chiên, dê, bò cũng được chú trọng vì nhu cầu phụng tự trong đền thờ. Riêng trong lễ Vượt Qua đã cần khoảng 18.000 con chiên để sát tế. Người ta dùng lừa để chở người và đồ, còn bò để kéo cầy, kéo xe. Ngoài ra ngư nghiệp cũng đem lại một nguồn lợi đáng kể. Cá có nhiều ở ven Ðịa trung Hải, ở các sông rạch và nhất là ở hồ Ga-li-lê, quanh hồ này có cả một kỹ nghệ làm cá khô bán khắp nơi trong nước.

Thương mại không phát triển mạnh, trừ ở những đô thị gần biển như Ga-da, Xê-da-rê. Ở các đô thị mới lập, có những cửa tiệm và cả những ngân hàng nữa (x. Mt 25,27). Các cuộc hành hương về thánh đô cũng có tầm quan trọng về thương mại, vì đây là dịp trao đổi hàng hóa giữa người trong nước với các kiều dân hải ngoại. Pa-lét-ti-na nhập khẩu các mặt hàng cao cấp như gỗ hương bá từ xứ Li-băng, hương liệu và kim loại từ Ả-rập, vải vóc từ Ấn Ðộ… và xuất khẩu thực phẩm, da thuộc… Nói chung công nghiệp chưa phát triển, nhưng ngành tiểu thủ công lại có nét khởi sắc.

c. Các nhóm xã hội

Vào thời Ðức Giê-su, có sự cách biệt khá lớn giữa những thành phần trong xã hội. Có một thiểu số giàu có, đó là những người thuộc dòng họ Hê-rô-đê, những dòng tộc tư tế lâu đời ở Giê-ru-sa-lem và các trưởng ty quan thuế. Ngược lại số người nghèo chiếm đa số. Nhân dân bị người Rô-ma bắt phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng. Nhiều người bị thất nghiệp (Mt 20,1-7), nhiều người phải di cư đi nơi khác làm ăn. Cũng có một giai cấp trung lưu, nhưng số này không đáng kể. Họ là những tư tế ở vùng quê, thợ thủ công hay chủ các nông trại nhỏ. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến một vài giai cấp điển hình trong xã hội Do-thái.

Giới tư tế

Ðứng đầu giới tư tế là vị thượng tế, vị này là thủ lãnh của dân, là tác viên chính trong phụng tự ở đền thờ và là người chủ tọa thượng hội đồng Do-thái gồm 71 thành viên. Trước kia chức vụ này được trao theo lối cha truyền con nối và làm đến mãn đời. Nhưng dưới thời Rô-ma cai trị và dưới triều đại của vua Hê-rô-đê Cả, những đặc quyền này đã bị tước mất. Rô-ma có thể bổ nhiệm hay cách chức vị thượng tế tùy ý họ, thế nên vị thượng tế đang tại chức dễ có thái độ lụy phục đối với Rô-ma. Dù vậy dân chúng vẫn tỏ lòng tôn kính người mà coi họ là trung gian chính thức giữa Thiên Chúa và dân Người. Mỗi năm một lần, vị thượng tế được vào Nơi Cực Thánh trong đền thờ để làm lễ xá tội cho dân.

Viên quản đốc đền thờ (Cv 4,1; 5,24) là phụ tá của thượng tế trong phụng tự và thay mặt thượng tế khi cần. Ông này cũng coi sóc an ninh trật tự đền thờ với sự trợ giúp của các đội trưởng toán quân.

Các tư tế cấp dưới sống ở thánh đô hay rải rác trong nước. Người ta ước chừng có 7,200 tư tế. Mỗi năm họ tụ về Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Họ còn chia làm 24 nhóm, thay phiên nhau phục vụ trong đền thờ, mỗi năm hai lần, mỗi lần kéo dài một tuần (x. Lc 1,5.8-9). Các tư tế sống nhờ của lễ dâng cúng. Tư tế ở thủ đô có đời sống sung túc hơn; còn các tư tế ở những nơi khác sống nhờ thuế thập phân, nhưng thường vẫn phải làm một nghề chân tay mới đủ sống.

Cuối cùng là các thầy Lê-vi. Họ không phải là tư tế nên không được cử hành phụng tự. Họ chỉ lo phận vụ ca hát, sử dụng nhạc khí, giữ cửa, bảo quản và bảo vệ đền thờ.

Giới kinh sư

Ðây là những người sau nhiều năm nghiên cứu lâu dài đã trở thành những nhà chuyên môn về Kinh Thánh. Một số nhỏ kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là giáo dân ủng hộ lập trường Pha-ri-sêu. Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân vì trong thời lưu đày, khi đền thờ và triều đình sụp đổ, người ta chú trọng đến việc học hỏi và sống luật Chúa. Các kinh sư là người giải thích và áp dụng luật cho hoàn cảnh mới. Có thể nói họ là những người kế tục sự nghiệp của các ngôn sứ. Họ hướng dẫn đời sống tinh thần của dân, còn tư tế chủ yếu chỉ lo phụng tự. Các kinh sư có mặt ở hội đường và càng lúc họ càng chiếm một vị thế quan trọng hơn trong thượng hội đồng Do-thái bên cạnh các thượng tế và kỳ mục.

Các kinh sư đã đưa ra nhiều luật lệ chi li để giúp con người lúc nào cũng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa. Tuy nhiên họ cũng dễ rơi vào một thứ óc nệ luật hẹp hòi, khiến cho việc giữ luật trở thành gánh nặng và làm cho người ta quên đi cái cốt yếu của luật. Dù sao chính nhờ các kinh sư mà Do-thái giáo còn tồn tại sau biến cố năm 70.

Giới kỳ mục

Ðây là những người có địa vị trong xã hội, họ là những bậc niên trưởng hay phú ông. Tuy có chân trong thượng hội đồng nhưng họ không có ảnh hưởng là bao. Vì muốn được tại vị nên họ khá gắn bó với Rô-ma cũng như với các thượng tế. Dường như họ thuộc phái Xa-đốc.

Dân chúng

Ða số là nông dân, thợ thủ công hay tiểu thương. Có nghề bị coi là ô uế như nghề thuộc da, có nghề bị coi khinh như nghề thu thuế. Cũng có cả hành khất, trộm cắp và gái điếm ở Pa-lét-ti-na vào thời Ðức Giê-su. Người Do-thái được miễn thi hành nghĩa vụ quân sự đối với đế quốc. Nô lệ là giai cấp bị ngược đãi nhất, nhưng các nô lệ gốc Do-thái thường được đối xử tử tế hơn và có thể được trả tự do sau sáu năm phục vụ.

Ở trong nước và nhất là ở hải ngoại, người ta thấy có những người xin gia nhập đạo Do-thái (Mt 23,15). Trước khi trở thành tân tòng, nam giới phải chịu cắt bì, được thanh tẩy và đi dâng lễ tại đền thờ. Số phụ nữ tòng giáo luôn đông hơn đàn ông.

Ở Pa-lét-ti-na thời Ðức Giê-su, người phụ nữ không có giá bằng nam giới. Thế giới của họ chỉ là gia đình với các việc nội trợ. Họ không được đi học cả về mặt đạo lẫn mặt đời. Họ không được mời làm chứng tại tòa án cũng như không được lên tiếng trong các nghi lễ phụng tự. Họ ít khi đi ra ngoài và nếu có ra ngoài thì thường đội khăn che đầu. Theo tập tục thời đó, người đàn ông không nên nhìn một phụ nữ đã có chồng, cũng không nên trò chuyện hay chào hỏi một phụ nữ ở ngoài đường. Các thiếu nữ Do-thái lập gia đình rất sớm. Họ làm đám hỏi lúc 12 hay 13 tuổi và thường làm đám cưới khoảng một năm sau. Người vợ có thể bị chồng ly dị chỉ vì những lý do không đáng gì. Sau khi chồng chết, người vợ góa phải chờ xem người anh em chồng có muốn lấy mình không, nếu người này không muốn, người vợ góa mới được đi lấy chồng khác. Chính trong bối cảnh đó mà chúng ta hiểu hơn một số đoạn Tin Mừng như Mt 22,23-32 và Lc 7,36-50. Việc có một nhóm phụ nữ đi theo Ðức Giê-su (Lc 8,2-3) hẳn là một điều lạ thường vào thời đó.

d. Các nhóm tôn giáo

Có bốn nhóm chính:

Nhóm Xa-đốc

Nhóm này gồm giới giáo sĩ cấp cao, phần lớn các tư tế ở Giê-ru-sa-lem và nhiều kỳ mục. Nét chung của họ là tính bảo thủ, họ chống lại mọi thay đổi về mặt thần học, phụng tự hay chính trị. Họ có thái độ hòa hoãn với người Rô-ma, có thể là để duy trì địa vị, bổng lộc. Dầu sao càng ngày họ càng xa rời dân chúng, uy tín của họ chỉ dựa trên chức vụ tư tế mà họ đảm nhận. Bởi vậy khi đền thờ sụp đổ năm 70, nhóm này cũng biến mất khỏi lịch sử.

Xét về mặt giáo thuyết, nhóm Xa-đốc phủ nhận thưởng phạt đời sau và sự phục sinh (Mt 22,23; Cv 23,6-8), bởi họ gắn bó với quan niệm truyền thống về âm phủ. Họ không coi trọng các luật truyền khẩu nhu nhóm Pha-ri-sêu, nhưng lại hết sức trung thành với nghĩa đen của Kinh Thánh. Họ quý chuộng đặc biệt Ngũ Thư hơn mọi sách thánh khác. Ðức Giê-su cũng đã có lần tranh luận với họ về sự phục sinh (Mc 12,18-27).

Nhóm Pha-ri-sêu

Ðây là một nhóm gồm đa số là dân thường thuộc giai cấp trung lưu, tuy cũng có các tư tế vùng quê và các thầy Lêvi tham dự. Không phải mọi người Pha-ri-sêu đều là kinh sư, nhưng hầu như mọi kinh sư đều là Pha-ri-sêu. ý nghĩa của từ pharisaioi còn được tranh luận; nhiền người cho rằng nó có nghĩa là “những kẻ sống tách biệt”, từ đó có lối gọi “biệt phái”. Nhóm này bắt nguồn từ nhóm những người đạo đức (Hassidim) ở thời Ma-ca-bê. Vào thời Ðức Giê-su, các người Pha-ri-sêu rất được kính trọng vì chính đời sống đạo đức của họ. Họ họp thành những cộng đoàn nhỏ, đóng kín. Họ chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và quyết tâm tuân giữ tỉ mỉ mọi khoản luật, thành văn cũng như truyền khẩu. So với nhóm Xa-đốc, họ có tinh thần cởi mở hơn về mặt giáo lý và giải thích Kinh Thánh. Khuôn mặt người Pha-ri-sêu được mô tả trong Tin Mừng không phản ảnh hết sự thực về nhóm người này. Có lẽ Ðức Giê-su lúc còn bé đã được các người Pha-ri-sêu dạy giáo lý và cầu nguyện ở hội đường Na-da-rét. Hẳn đã có những người Pha-ri-sêu kiêu hãnh và giả hình, nhưng thái độ tưởng mình có thể mua được Nước trời bằng công trạng và sự thánh thiện của mình vẫn là thái độ mà chúng ta có thể rơi vào.

Nhóm Ét-xê-nô

Năm 1947 nhờ một khám phá tình cờ ở vùng Cum-ran (tây bắc Biển Chết), người ta biết đến sự hiện diện của một nhóm người Do-thái, sống chung với nhau thành cộng đoàn: có thể đó là nhóm Ét-xê-nô mà sử gia Do-thái Giô-xê-phô đã nhắc đến. Có lẽ nhóm này bắt nguồn từ thời Ma-ca-bê khởi nghĩa. Ðây là một nhóm được tổ chức hết sức chặt chẽ và có tôn ti trật tự. Họ sống nghèo khó, vâng phục những người lãnh đạo và ở độc thân. Những việc chính của họ hằng ngày là: cầu nguyện sáng chiều. lao động chân tay, thanh tẩy theo nghi thức và dành một phần ba đêm để học hỏi Kinh Thánh và các tài liệu của cộng đoàn. Khám phá ở Cum-ran để lại cho ta nhiều bản chép tay quý giá về Kinh Thánh và các tài liệu của cộng đoàn. Cũng có cả một hệ thống bể chứa nước dùng cho việc thanh tẩy.

Phải nhìn nhận rằng đời sống thánh thiện của nhóm này quả là một đóa hoa đẹp của Do-thái giáo. Tuy họ sống tách biệt nhưng đây là một cộng đoàn năng động, họ mong Chúa đến nên sống trong cầu nguyện và tiết dục để chuẩn bị đón Người. Theo các tác giả xưa như sử gia Giô-xê-phô thì nhóm Ét-xê-nô sống độc thân hoàn toàn. Tuy nhiên người ta lại tìm thấy những bộ xương phụ nữ ở nghĩa địa của họ và cả những tài liệu nói đến việc kết hôn một vợ một chồng. Dù sao điều này không phải là không giải thích được: có thể lúc đầu, họ nhận cả các cặp vợ chồng hay cho phép kết hôn, nhưng dần dần họ đi đến chỗ tiết dục tuyệt đối. Nhóm Ét-xê-nô tự coi mình mới là con cháu đích thực của thượng tế Xa-đốc. Ðối với họ, đền thờ đã bị các tư tế làm ô uế nên họ từ chối không đến đền thờ. Họ mong Thiên Chúa đến để thanh tẩy đền thờ và tái lập một nền phụng tự thanh sạch. Về mặt chính trị, họ là những người Do-thái yêu nước. Năm 68 họ lao mình vào cuộc chiến chống Rô-ma để rồi chấp nhận thất bại.

Chắc có một liên hệ nào đó giữa ông Gio-an Tẩy Giả với nhóm Ét-xê-nô ở Cum-ran, vì lời giảng của ông có những nét tương tự với xác tín của nhóm này: Ðấng Mê-si-a đã gần đến, sự cần thiết của việc thanh tẩy, sự kinh khủng của ngày thịnh nộ sắp giáng xuống… Chẳng rõ Ðức Giê-su có biết đến nhóm người ở Cum-ran không, nhưng phải nhận rằng giáo lý của Ngài khác với giáo lý của họ ở một điểm khá quan trọng, đó là tính phổ quát của ơn cứu độ. Khi cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa thì người Ét-xê-nô quay ra căm thù những kẻ tội lỗi, ngoại giáo cũng như Do-thái, và mong ngày Thiên Chúa tiêu diệt tất cả những kẻ vô đạo trên mặt đất. Còn Ðức Giê-su lại nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.

Nhóm Sa-ma-ri

Dân Sa-ma-ri là một nhóm người có gốc Do-thái, nhưng sau cuộc lưu đày năm 722 TCN, họ trở thành một dân có pha trộn nhiều sắc dân ngoại. Sau nhiều biến cố lịch sử đáng tiếc, dân Sa-ma-ri với dân Do-thái nuôi mối thù ghét lẫn nhau. Người Do-thái coi người Sa-ma-ri là lạc giáo và từ chối có sự liên hệ với họ (x Ga 4,9). Người Sa-ma-ri không thờ phượng ở Giê-ru-sa-lem, nhưng ở trên núi Ga-ri-dim, và họ chỉ nhìn nhận Ngũ Thư mà thôi. Thái độ của Ðức Giê-su đối với nhóm người này thật là khác thường trong bối cảnh thời ấy (Lc 10,33; 17,16; Ga 4,5-40). Sa-ma-ri cũng đã trở nên phần đất được rao giảng Tin Mừng (Cv 8,5-25).

e. Ðền thờ, hội đường và các ngày đại lễ

Ðền thờ

Vào thời Ðức Giê-su, đền thờ đã trải qua một lịch sử dài. Ðền thờ đầu tiên do vua Sa-lô-môn xây đã bị quân Ba-by-lon phá hủy năm 587 TCN. Sau khi thoát khỏi cảnh lưu đày trở về, người ta xây đền thờ thứ hai nhỏ hơn (520-515 TCN). Ðền thờ vua Hê-rô-đê Cả, đền thờ được trùng tu và nới rộng: công trình bắt đầu năm 20 TCN, mãi đến năm 64 SCN mới hoàn tất, nhưng sáu năm sau đền thờ lại bị phá hủy hoàn toàn. Ðền thờ có nhiều tiền đình. Lớn hơn cả là tiền đình dân ngoại, nơi đây người ta buôn bán súc vật và đổi tiền để dâng cúng đền thờ (x. Ga 2,14). Một lan can bằng đá ngăn tiền đình này với tiền đình phụ nữ, người ngoại giáo vượt qua sẽ bị xử tử (x. Cv 21,28). Rồi đến tiền đình Ít-ra-en dành cho nam giới. Sau cùng là tiền đình tư tế, ở giữa có bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, cao 7,5 mét, mỗi cạnh dài 25 mét. Ðây là nơi dâng các vật hy sinh, đặc biệt là “hy sinh vĩnh viễn” gồm việc dâng một con chiên vào buổi sáng và buổi chiều mỗi ngày. Cuối cung là phần quan trọng nhất của đền thờ gồm Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh. Nơi Thánh (Hêkal) có bàn thờ dâng hương (x. Lc 1,9.11), bàn dâng bánh trưng hiến và chân đèn bảy ngọn. Ði qua một bức màn là vào Nơi Cực Thánh (Debir). trước kia, trong đền thờ do vua Sa-lô-môn xây, Nơi Cực Thánh là nơi đặt Hòm Bia Giao Ước. Từ năm 587 TCN, Hòm Bia không còn nữa nên Nơi Cực thánh hoàn toàn để trống. Người Do-thái tin rằng đây là nơi Thiên Chúa hiện diện cách đặc biệt, chỉ có thượng tế tại chức mới được vào mỗi năm một lần trong dịp lễ xá tội.

Ðền thơ là trung tâm đời sống phụng tự của dân Do-thái, nên việc đền thờ bị phá hủy là một mất mát không gì bù đắp nổi. Từ 20 tuổi, mọi người Do-thái phái nam đều phải nộp thuế đền thờ. Ði hành hương lên Giê-ru-sa-lem vào ba dịp đại lễ là một niêm vui lớn cho những người mộ đạo.

Hội đường

Hiện nay người ta cho rằng từ thời lưu đày ở Ba-by-lon, vì đền thờ không còn nữa, nên bắt đầu xuất hiện các hội đường. Từ đó các hội đường phát triển nhanh ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Mỗi cộng đoàn Do-thái đều có hội đường. Ở các thành phố lớn có nhiều hội đường.

Hội đường là một căn nhà hình chữ nhật, hướng về Giê-ru-sa-lem. Phụng tự ở hội đường chủ yếu là ngày sa-bát, gồm có cầu nguyện và đọc Kinh Thánh: người ta đọc Kinh Thánh bằng tiếng Híp-ri, rồi đọc bản dịch bằng tiếng A-ram (Targum), sau đó là bài giảng nhằm giải thích và áp dụng vào cuộc sống (Lc 4,16-21). Ông trưởng hội đường có nhiệm vụ tổ chức phụng vụ, chỉ định người đọc sách thánh và mời những người có khả năng lên giải thích (x Cv 13,15).

Vai trò của hội đường rất quan trọng; đặc biệt sau năm 70, khi không còn đền thờ nữa, nó trở thành nơi sinh hoạt của đạo Do-thái. Hội đường không những là nơi phụng tự, mà còn là trường học và là trung tâm văn hóa. Chính nhờ hội đường mà niềm tin của người Do-thái được duy trì và lòng đạo đức được nuôi dưỡng.

Các ngày đại lễ

Có ba dịp lễ lớn hàng năm kỷ niệm những lần Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử để giải phóng dân Người. Ðó là lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Trong các lễ này, trên nguyên tắc, mọi người Do-thái phái nam phải đi hành hương Giê-ru-sa-lem.

Lễ Vượt Qua là lễ trọng hơn cả, kéo dài trọn một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-xan (khoảng tháng ba, tháng tư dương lịch), người ta sát tế chiên tại đền thờ, rồi tư tế sẽ lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc chiên vượt qua theo gia đình hay theo nhóm. Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ xưa kia được giải phóng khỏi Ai-cập. Trong bữa tiệc Vượt Qua người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng. Ngoài ra người ta cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành. Trong bầu khí linh thánh của bữa ăn đặc biệt này, vị chủ tọa sẽ kể lại biến cố Xuất Hành. Lúc tiệc gần tàn, người ta đọc các thánh vịnh ca ngợi (Hallel) tức là Tv 113-118.

Khi nhớ lại cuộc giải phóng xưa, người ta hy vọng Chúa sẽ giải phóng dân Người trong tương lai. Chính vì lễ Vượt Qua là một lễ có thể khơi dậy lòng ái quốc và vì số người đổ về Giê-ru-sa-lem rất đông (khoảng 200.000 người), nên dịp này chính quyền Rô-ma canh phòng cẩn mật hơn nhiều để tránh bạo loạn.

Lễ Ngũ Tuần được cử hành 50 ngày sau lễ Vượt Qua. Nguyên thủy đây là lễ mùa gặt, người ta dâng cho Chúa những của đầu mùa (Xh 23,16). Sau này lễ Ngũ Tuần (còn được gọi là lễ Các Tuần ở Xh 34,22) trở thành một lễ tưởng niệm việc Chúa ban giao ước và luật trên núi Xi-nai. Thật là ý nghĩa khi chính trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do-thái mà Thánh Thần đã được ban xuống để kết thúc cuộc Vượt Qua của Chúa Ki-tô (Cv 2).

Lễ Lều nguyên thủy là lễ thu hoạch những hoa trái của ruộng đồng (Xh 23,16). Sử gia Giô-xê-phô cho rằng đây là lễ thánh nhất và trọng nhất của người Do-thái. Lễ này cử hành vào mùa thu, khi vụ thu hoạch đã kết thúc (Lv 23,39), trái cây đã được hái xong. Khách hành hương dựng lên những cái lều, họ ở đó trong bảy ngày để nhớ lại thời gian sống trong sa mạc (Lv 23,42-43). Ngoài ra có nhiều cuộc rước tưng bừng, người ta phất cành lá vạn tuế (lulab) để tung hô. Mỗi ngày các tư tế đi rước nước ở hồ Si-lô-ác đem về rưới lên bàn thờ. Buổi tối, tiền đình phụ nữ rực rỡ ánh đèn, có ca múa suốt đêm. Tin Mừng Gio-an đã minh nhiên nói đến lễ này ở 7,2 và có lẽ đã ám chỉ đến lễ ấy ở 7,37-38 và 8,12.

Ngoài ba đại lễ trên còn những lễ khác như lễ Xá Tội, lễ Cung Hiến đền thờ (x. Ga 10,22) và lễ Tân Niên. Ngày sa-bát là ngày cầu nguyện và nghỉ ngơi, ngưng mọi công việc sau sáu ngày lao động. Ngày sa-bát bắt đầu từ chiều thứ sáu đến chiều thứ bảy, đó là ngày thánh hiến cho Thiên Chúa. Ðức Giê-su không coi thường ngày sa-bát, Người chỉ phản đối một lối hiểu hẹp hòi về ngày lễ này, bởi lẽ ngày sa-bát cũng là ngày sống cho tha nhân (Mt 12,12).

VI. TÂN ƯỚC VÀ CÁC KI-TÔ HỮU

Thánh Giê-rô-ni-mô đã khẳng định: “Không biết Kinh Thánh là không biết Ðức Ki-tô”. Khẳng định đó còn phù hợp hơn biết bao đối với Tân Ước đến nỗi ta có thể nói: không biết Tân Ước, không biết bốn sách Tin Mừng, là không biết Ðức Ki-tô. Biết Ðức Ki-tô thật là mối lợi tuyệt vời mà mọi Ki-tô hữu ước ao có được trong đời.

Công Ðồng Va-ti-ca-nô II đã dành chương cuối của Hiến Chế về Mặc Khải để nói về tầm quan trọng của Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội và đời sống của từng Ki-tô hữu.

Công Ðồng muốn lời Chúa được trao gửi đến mọi Ki-tô hữu thuộc mọi thời đại, mọi ngôn ngữ (MK 22). Ðây là một điều mới mẻ, vì từ thế kỷ XIII và nhất là từ thế kỷ XV, có khuynh hướng không khuyến khích việc dùng Kinh Thánh bằng tiếng bản xứ, và muốn dành riêng cuốn Kinh Thánh cho những nhà thần học.

Dùng một hình ảnh mạnh mẽ và sâu sắc, Công Ðồng khẳng định việc dân Chúa được dưỡng nuôi bằng bánh ban sự sống từ trên bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô (MK 21). Như thế, Lời Chúa thật là lương thực hàng ngày cho Ki-tô hữu, song song với việc họ được nuôi dưỡng bằng bàn tiệc Thánh Thể.

Công Ðồng khuyến khích đặc biệt mọi Ki-tô hữu đọc Lời Chúa thường xuyên. Khi nghe đọc Lời Chúa trong phụng vụ thì Chúa Ki-tô “hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội” (PV 7). Vậy khi Giáo Hội đọc Kinh Thánh, thì lúc đó Thiên Chúa nói với Dân Người và Ðức Ki-tô loan báo Tin Mừng cho Giáo Hội (PV 33).

Tuy nhiên, Công Ðồng còn khuyến khích tín hữu đọc Kinh Thánh một cách riêng tư. Ðây là một hướng mới của lòng đạo đức Ki-tô Giáo. Việc đọc Kinh Thánh có một vị trí trổi vượt trong số các việc đạo đức.

Kinh Thánh là một tập sách cổ, ngay bộ Tân Ước cũng đã cách xa ta gần 20 thế kỷ. Chính vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi gặp những đoạn văn khó hiểu và xa lạ với nền văn hóa của ta. “Lòng yêu mến nồng nàn và sống động đối với Kinh Thánh” (PV 24) được thể hiện qua việc học hỏi không ngừng. Các bài dẫn nhập, các ghi chú, các sách chú giải và những khóa học về Lời Chúa sẽ giúp ta rất nhiều để hiểu đúng và sâu về Lời Chúa trong truyền thống Giáo Hội.

Thái độ đầu tiên của người đọc Lời Chúa là thái độ đức tin. Tin rằng chính qua đoạn Kinh Thánh mà tôi đang suy niệm hay chiêm niệm, Thiên Chúa muốn ngỏ lời với tôi: “Trong sách Thánh, Cha trên trời dịu dàng đến với con cái Người và đi vào cuộc đối thoại với họ” (MK 21). Nhưng để có thể đối thoại, ta cần biết mở lòng lắng nghe cách ân cần và khiêm tốn. Tiếng Chúa đến với tôi ở đây, bây giờ; tiếng ấy có thể khác với những dự định của tôi và đòi tôi bước vào một cuộc mạo hiểm của lòng tin phó thác. Cuộc gặp gỡ với Lời Chúa sẽ soi sáng cho từng cá nhân cũng như cho cả tập thể trước những quyết định và chọn lựa trong hoàn cảnh cụ thể hôm nay. Như thế suy niệm Lời Chúa đòi chúng ta phải dấn thân bằng cả cuộc đời.

Ðọc Lời Chúa với thái độ tin tưởng lắng nghe là đã bắt đầu cầu nguyện. “Cầu nguyện phải đi đôi với việc đọc Kinh Thánh, để cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người được thiết lập” (MK 25). Dĩ nhiên cầu nguyện không nhất thiết phải nói ra lời, nhưng có thể chỉ là sự yên lặng thẳm sâu của người thấy mình sống trong tình yêu Chúa.

Kinh Thánh sẽ chỉ là mớ chữ vô hồn nếu Chúa Thánh Thần không đến tác động trên người đọc. Nhờ Người mà một bản văn cổ trở thành lương thực nuôi dưỡng các tín hữu mãi cho đến tận thế. Nhờ Người mà Ðức Giê-su lịch sử trở nên gần gũi với chúng ta. Người sẽ dẫn chúng ta vào chân lý trọn vẹn. Vậy để hiểu được một bản văn do Thánh Thần linh hứng, chúng ta cũng cần có Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy.

“Ðối với con cái Giáo Hội, Kinh Thánh là sức mạnh cho đức tin của họ, là lương thực cho linh hồn họ, là nguồn suối trong ngần và thường hằng cho đời sống thiêng liêng của họ” (MK 21).

Bản dịch Tân Ước mà bạn đang cầm trên tay là một đóng góp nhỏ bé cho nhu cầu đọc, suy niệm và sống Lời Chúa trên quê hương Việt Nam, và trong Giáo Hội.

Scroll to Top