Chú giải Tin Mừng Mát-thêu

Chương
Chú Giải
Chương
Chú Giải
Chú giải Tân Ước
Chú giải Cựu Ước

I. Ngũ Thư

01. Chú giải Sách Sáng Thế

02. Chú giải Sách Xuất Hành

03. Chú giải Sách Lê-vi

04. Chú giải Sách Dân Số

05. Chú giải Sách Đệ Nhị Luật

II. Các Sách Lịch Sử

06. Chú giải Sách Giô-suê

07. Chú giải Sách Thủ Lãnh

08. Chú giải Sách Rút

09. Chú giải Sách Sa-mu-en 1

10. Chú giải Sách Sa-mu-en 2

11. Chú giải Sách Các Vua 1

12. Chú giải Sách Các Vua 2

13. Chú giải Sách Sử Biên 1

14. Chú giải Sách Sử Biên 2

15. Chú giải Sách Ét-ra

16. Chú giải Sách Nơ-khe-mi-a

17. Chú giải Sách Tô-bi-a

18. Chú giải Sách Giu-đi-tha

19. Chú giải Sách Ét-te

20. Chú giải Sách Ma-ca-bê 1

21. Chú giải Sách Ma-ca-bê 2

III. Các Sách Giáo Huấn

22. Chú giải Sách Gióp

23. Chú giải Sách Thánh Vịnh

24. Chú giải Sách Châm Ngôn

25. Chú giải Sách Giảng Viên

26. Chú giải Sách Diễm Ca

27. Chú giải Sách Khôn Ngoan

28. Chú giải Sách Huấn Ca

IV. Các Sách Ngôn Sứ

29. Chú giải Sách Ngôn Sứ I-sai-a

30. Chú giải Sách Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a

31. Chú giải Sách Ai Ca

32. Chú giải Sách Ba-rúc

33. Chú giải Sách Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en

34. Chú giải Sách Ngôn Sứ Đa-ni-en

35. Chú giải Sách Ngôn Sứ Hô-sê

36. Chú giải Sách Ngôn Sứ Giô-en

37. Chú giải Sách Ngôn Sứ A-mốt

38. Chú giải Sách Ngôn Sứ Ô-va-đi-a

39. Chú giải Sách Ngôn Sứ Giô-na

40. Chú giải Sách Ngôn Sứ Mi-kha

41. Chú giải Sách Ngôn Sứ Na-khum

42. Chú giải Sách Ngôn Sứ Kha-ba-cúc

43. Chú giải Sách Ngôn Sứ Xô-phô-ni-a

44. Chú giải Sách Ngôn Sứ Khác-gai

45. Chú giải Sách Ngôn Sứ Da-ca-ri-a

46. Chú giải Sách Ngôn Sứ Ma-la-khi

Chương 19

Câu 3. có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không – Những người Pha-ri-sêu thêm một lần nữa gài bẫy Chúa Giê-su và mong Người lỡ lời để có cớ buộc tội. Họ hỏi Người về quyền ly dị vợ và tin chắc kế này sẽ thành công, vì nếu Chúa Giê-su nói rằng điều đó không hợp pháp, họ sẽ buộc tội Người dạy trái với Lệ Luật Cựu Ước (Đnl 24,1), đàng khác, nếu Người nói rằng điều đó là hợp pháp, họ sẽ buộc tội Người ủng hộ những kẻ rẫy vợ vì thèm muốn phụ nữ khác.

Nhưng với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã làm họ phải im miệng bằng chính thẩm quyền của Kinh Thánh mà họ cố gắng trích dẫn để chống lại Người. Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. Như vậy, mối dây hôn nhân giữa vợ với chồng là một sự ràng buộc nghiêm ngặt đến nỗi họ trở nên một xương một thịt và không thể tách rời.

Câu 4. Thuở ban đầu, khi sáng tạo muôn loài, Thiên Chúa đã không phán với bất cứ sinh vật nào giống như cách Ngài phán với con người, rằng Ngài sẽ kết hợp một nam với một nữ. Từ đó, theo quan điểm của Thánh Augustinô, hôn nhân một vợ một chồng và tính bất khả phân ly của nó đã được Đấng Sáng Tạo thiết lập ngay từ đầu.

Câu 5. X. St 2,24.

Câu 7-8. Những người Pha-ri-sêu không hài lòng với câu trả lời của Chúa Giê-su và họ trích dẫn sách Luật Mô-sê để chất vấn Người lần thứ hai. Chúa chúng ta đã trả lời họ rằng sở dĩ có luật như vậy vì họ lòng chai dạ đá. Nói cách khác, luật rẫy vợ được dưa ra nhằm mục đích ngăn chặn những tội ác lớn hơn, chẳng hạn như những kẻ vì thèm muốn phụ nữ khác mà đẩy vợ vào chỗ chết để được tự do, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu.

Câu 9. ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình – Trong chương 5, Chúa Giê-su dạy rằng: ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình; như vậy, kết hợp với chỉ dẫn bổ sung ở đây, ta biết rằng trong trường hợp phải ly thân, nếu bất kỳ bên nào, vợ hoặc chồng cưới người khác thì đều phạm tội ngoại tình.

Về các vấn đề hôn nhân và ly hôn, Thánh Phao-lô khẳng định: với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ (1 Cr 7,10).

Câu 11. Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu – Không phải ai cũng có khả năng sống độc thân và khiết tịnh, bởi đó là một ân sủng mà Thiên Chúa chỉ dành cho một số người, khi họ cầu nguyện và khấn xin Người. Chúa Giê-su đã nhân cuộc đối thoại với những người Pha-ri-sêu để ca ngợi đức khiết tịnh mà Người mô tả như một món quà tuyệt vời và tốt lành từ ơn trên. Do đó, có thể thấy rằng, bên cạnh các điều răn, còn có những lời khuyên Phúc Âm dành cho các Ki-tô hữu. Việc tuân thủ những lời khuyên này không chỉ phù hợp với Lề Luật mà còn giúp chúng ta xứng đáng hơn trong việc dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa, nhất là cho chúng ta có nhiều hơn sự tự do và giảm bớt các trở ngại trong việc phụng sự Người.

Chúa Giê-su đã không tán thành kết luận mà các môn đệ đưa ra trước đó: Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn. Để tránh việc họ nhầm lẫn và lên án cả những cuộc hôn nhân trong sạch; đồng thời, để khuyến khích họ đề cao đời sống khiết tịnh, Người đã trả lời rất khôn khéo nhằm đưa ra chỉ dẫn: hôn nhân trong sạch là điều tốt, nhưng sẽ tốt hơn nếu không kết hôn, bởi đức khiết tịnh là một món quà tuyệt vời của Thiên Chúa. Điều này cũng được Thánh Phao-lô đưa ra trong 1 Cr 7,25-35.

Câu 13. để Người đặt tay trên chúng – Đây là một phong tục của người Do-thái khi họ dẫn trẻ nhỏ đến với những người được kính trọng trong dân, thường là các vị cao niên, để họ đặt tay trên chúng và tin rằng như vậy, chúng sẽ nhận được phúc lành từ họ. Trong Giáo Hội Công Giáo, các Giám mục và linh mục cũng thường đặt tay trên các trẻ nhỏ với ý nghĩa tương tự.

Ở đây, các môn đệ la rầy những trẻ em được đưa đến không phải vì họ không muốn các trẻ ấy được chúc lành, nhưng họ sợ rằng chúng sẽ quấy rầy Chúa. Chúa Giê-su bảo họ đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai có trái tim hồn nhiên và đơn sơ giống như chúng.

Theo Thánh Gio-an Kim Khẩu, nếu muốn vào Nước Trời, chúng ta phải bắt chước những đức tính của trẻ nhỏ. Tâm hồn của chúng thoát khỏi mọi đam mê, dục vọng và những ý định trả thù. Chúng có thể tha thứ và gần gũi với bất cứ ai đã làm cho chúng đau buồn, thậm chí coi họ như những người bạn thân thiết nhất. Mặc dù cha mẹ nhiều lần trách phạt, chúng vẫn sẽ trung thành với họ, yêu thương họ và coi sự nghèo khó của họ vượt trên sự quyến rũ của vàng bạc hay châu báu. Chúng không tìm kiếm những gì vượt quá mức cần thiết, không ham muốn vẻ đẹp xác thịt, không đau buồn khi đánh mất niềm vui thế gian. Do đó, Đấng Cứu Độ của chúng ta nói rằng Nước Trời là của những ai giống như chúng.

Theo truyền thống, Thánh I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a (?-108) là một trong số các trẻ nhỏ được Chúa Giê-su chúc lành trong trình thuật này.

Câu 16. Bấy giờ có một người đếnLc 18,18 thì cho biết người này là một thủ lãnh trong dân Do-thái. Một số người phỏng đoán rằng thanh niên này có lẽ đưa ra câu hỏi không phải để nhận được một lời khuyên bảo mà chỉ để thử Đức Giê-su giống như những người Pha-ri-sêu. Tuy nhiên, trình thuật Mc 10,22 cho biết anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi. Do đó, có thể thấy anh ta đến gặp Chúa với sự chân thành nhưng không đủ quyết tâm để từ bỏ của cải mình đang có.

Câu 17. Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi – Lc 18,19 thì ghi lại rằng Chúa Giê-su nói “Sao ông nói tôi nhân lành? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”. Lạc giáo Arius (khởi xướng bởi Arius (250/256-336), một linh mục tại A-lê-xan-ri-a, Ai-cập) đã dựa vào chi tiết này để phủ nhận sự đồng bản thể của Chúa Giê-su và Chúa Cha, họ cho rằng Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa một cách đúng đắn và chân thật. Điều này là sai. Ở đây, chúng ta phải hiểu rằng khi nói như vậy, Chúa Giê-su muốn tái khẳng định rằng mọi sự tốt lành đều phát xuất từ Thiên Chúa, và do đó, biểu lộ rằng mình chính là Thiên Chúa.

Câu 21. Nếu anh muốn nên hoàn thiện – Điều này cho thấy có một sự khác biệt giữa các điều răn và những lời khuyên nhằm hướng tới sự hoàn thiện. Sự hoàn thiện của Tin Mừng, về cơ bản, bao gồm việc tuân thủ nghiêm ngặt các điều răn của Thiên Chúa và được bổ trợ bằng cách chấp nhận không chỉ sự nghèo khó tự nguyện, nhưng còn bao gồm tất cả những lời khuyên khác trong Tin Mừng như sự khiết tịnh trọn đời và sự vâng phục tuyệt đối.

Rồi hãy đến theo tôi – Việc theo Chúa Ki-tô, với Thánh Augustinô và các vị tông đồ, chính là không lập gia đình, không có tài sản và sống đời sống cộng đoàn; cuộc sống như vậy đem tới một phần thưởng lớn lao trên Trời. Toàn bộ sự hoàn thiện của một Ki-tô hữu được gói gọn trong việc đi theo Chúa Giê-su, bằng cách bắt chước những nhân đức của Người. Những người có được sự nghèo khó và khiết tịnh không ngay lập tức trở nên hoàn thiện, nhưng họ bước vào con đường hoàn thiện, bằng cách tạo điều kiện cho mình có thể tiến bộ nhiều nhất, xóa bỏ những trở ngại và đặt sang một bên những mối tậm tâm của thế gian.

Theo Thánh Augustinô, trong chương này, Chúa Giê-su Ki-tô đưa ra ba lời khuyên Phúc Âm: Khiết tịnh trong câu 12, và ở câu này, là nghèo khó và vâng phục.

Câu 22. buồn rầu – Người thanh niên tỏ ra buồn bã và bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Như vậy, anh chọn cách gắn bó với những gì đã sở hữu, những của dư thừa đời này hơn là tìm kiếm điều anh mong muốn – sự sống đời đời.

Câu 25. Thế thì ai có thể được cứu? – Các môn đệ sửng sốt vì họ biết rằng không chỉ những người giàu có, mà ngay cả những người nghèo cũng dồn một phần tâm trí mình cho sự giàu sang.

Câu 28. đến thời tái sinh – Ở đây, Chúa Giê-su gọi sự phục sinh nói chung là tái sinh bởi lẽ sau đó, không chỉ thân xác con người mà toàn thể vũ trụ cũng sẽ được đổi mới. Lời hứa cho các tông đồ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en không phải chỉ giới hạn đối với các tông đồ và người Do-thái, nhưng còn được mở rộng cho các Ki-tô hữu và thế gian, cho thiên thần và loài người. Như Thánh Phao-lô tuyên bố: Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao? Nào anh em chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? (1 Cr 6,2-3)

Thánh Giê-rô-ni-mô, Thánh Augustinô, Thánh Grêgôriô và nhiều vị khác cho rằng những người làm việc tông đồ, những người từ bỏ của cải đời này để tuân theo Chúa Ki-tô cả trong tâm trí và cảm xúc, những người bằng mọi cách thúc đẩy triều đại Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng sẽ được vinh dự ngồi tòa phán xét cùng với Chúa Ki-tô trong thời tái sinh.

Scroll to Top