Chú giải Tin Mừng Lu-ca

Chương
Chú Giải
Chương
Chú Giải
Chú giải Tân Ước
Chú giải Cựu Ước

I. Ngũ Thư

01. Chú giải Sách Sáng Thế

02. Chú giải Sách Xuất Hành

03. Chú giải Sách Lê-vi

04. Chú giải Sách Dân Số

05. Chú giải Sách Đệ Nhị Luật

II. Các Sách Lịch Sử

06. Chú giải Sách Giô-suê

07. Chú giải Sách Thủ Lãnh

08. Chú giải Sách Rút

09. Chú giải Sách Sa-mu-en 1

10. Chú giải Sách Sa-mu-en 2

11. Chú giải Sách Các Vua 1

12. Chú giải Sách Các Vua 2

13. Chú giải Sách Sử Biên 1

14. Chú giải Sách Sử Biên 2

15. Chú giải Sách Ét-ra

16. Chú giải Sách Nơ-khe-mi-a

17. Chú giải Sách Tô-bi-a

18. Chú giải Sách Giu-đi-tha

19. Chú giải Sách Ét-te

20. Chú giải Sách Ma-ca-bê 1

21. Chú giải Sách Ma-ca-bê 2

III. Các Sách Giáo Huấn

22. Chú giải Sách Gióp

23. Chú giải Sách Thánh Vịnh

24. Chú giải Sách Châm Ngôn

25. Chú giải Sách Giảng Viên

26. Chú giải Sách Diễm Ca

27. Chú giải Sách Khôn Ngoan

28. Chú giải Sách Huấn Ca

IV. Các Sách Ngôn Sứ

29. Chú giải Sách Ngôn Sứ I-sai-a

30. Chú giải Sách Ngôn Sứ Giê-rê-mi-a

31. Chú giải Sách Ai Ca

32. Chú giải Sách Ba-rúc

33. Chú giải Sách Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en

34. Chú giải Sách Ngôn Sứ Đa-ni-en

35. Chú giải Sách Ngôn Sứ Hô-sê

36. Chú giải Sách Ngôn Sứ Giô-en

37. Chú giải Sách Ngôn Sứ A-mốt

38. Chú giải Sách Ngôn Sứ Ô-va-đi-a

39. Chú giải Sách Ngôn Sứ Giô-na

40. Chú giải Sách Ngôn Sứ Mi-kha

41. Chú giải Sách Ngôn Sứ Na-khum

42. Chú giải Sách Ngôn Sứ Kha-ba-cúc

43. Chú giải Sách Ngôn Sứ Xô-phô-ni-a

44. Chú giải Sách Ngôn Sứ Khác-gai

45. Chú giải Sách Ngôn Sứ Da-ca-ri-a

46. Chú giải Sách Ngôn Sứ Ma-la-khi

Chương 11

Câu 3. hàng ngày – Bản văn Hy-lạp sử dụng tính từ ἐπιούσιος [epiousios], tức là siêu bản thể, hay siêu vượt bản thể vật chất [supersubstantial]. Đây không phải là loại bánh (lương thực) đi vào thể xác, nhưng là bánh thuộc về đời sống vĩnh cửu giúp nâng đỡ sự sống của linh hồn.

Ở đây, nó được gọi là lương thực hàng ngày. Vậy hãy lãnh nhận hàng ngày, lương thực ấy sẽ hàng ngày đem lại lợi ích cho bạn; để tiếp tục sống như vậy, bạn cũng phải ở trong tình trạng xứng hợp với việc lãnh nhận nó. Tất cả những ai sống trong tình trạng tội lỗi đều mang thương tích và phải tìm một phương pháp chữa trị. Phương pháp đó chính Bí tích có tính thiên quốc và đáng kính bậc nhất này (x. Thánh Augustinô, On the Sermon on the Mount, Book II).

Câu 4. Chúa Ki-tô không dạy chúng ta cầu nguyện để giải quyết những nỗi ưu phiền của thân xác, nhưng luôn truyền cho chúng ta phải cầu nguyện để không sa chước cám dỗ. Vì thế, khi cơn cám dỗ đến, hãy cầu xin ân sủng của Thiên Chúa để chịu đựng nó, có như vậy, lời hứa trong Mt 10,22, “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát,” mới ứng nghiệm nơi chúng ta.

Câu 5. Dụ ngôn này chỉ xuất duy nhất trong Tin Mừng Lu-ca. Ở đây, sau khi dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện, Chúa Giê-su đã bảy tỏ tính hữu ích và hiệu quả của lời cầu nguyện nói chung. Ngài muốn khắc sâu vào tâm trí họ vai trò thiết yếu của sự kiên trì trong cầu nguyện. Như ta thấy trong dụ ngôn, anh bạn quấy rầy tới vay mượn bạn mình vào lúc không thích hợp và đã bị từ chối, nhưng nhờ kiên trì nài nỉ trước cửa nhà, anh đã đạt được điều mà lẽ ra chẳng được nếu không có sự kiên trì đó. Vì thế, Đấng Toàn Năng cũng mong được chúng ta quấy rầy, mong được thấy chúng ta cầu nguyện trong sự kiên trì và sốt sắng. Anh bạn trong dụ ngôn chính là hình mẫu để chúng ta noi theo. Thiên Chúa nhân lành hẳn không khuyên chúng ta cầu nguyện tha thiết như vậy nếu Ngài không sẵn sàng nhậm lời cầu xin của chúng ta. Chúng ta hãy lấy làm xấu hổ trước sự lười biếng của mình: Thiên Chúa đã sẵn sàng ban cho hơn là chúng ta sẵn sàng đón nhận.

Câu 9. Xem Chú giải Mt 7,7.

Câu 24-26. Dụ ngôn này không chỉ dành cho người Do-thái, những người đã được Thiên Chúa cứu thoát khỏi cảnh lưu đày và sự chế ngự của ma quỷ nhờ chiên Vượt Qua và Luật Mô-sê; nhưng còn dành cho các Ki-tô hữu, là những người đã được giải thoát khỏi tình trạng ô uế của tội lỗi nhờ chịu phép Rửa. Do bỏ bê, trễ nải việc linh hồn và bất cẩn trước sự tấn công của ma quỷ, những nết xấu mà họ tưởng như đã bị dập tắt sẽ quay trở lại, kết quả là không chỉ những nết xấu đó, mà vô số những khuynh hướng xấu xa khác, dưới hình ảnh bảy quỷ, sẽ chiếm lấy tâm hồn họ. Tình trạng của họ sẽ tệ hơn trước vì phải chịu hình phạt nghiêm khắc hơn cho những tội phạm phải sau này.

Câu 27-28. Ở đây, Chúa Giê-su không bác bỏ câu nói của người phụ nữ, hay phủ nhận Đức Ma-ri-a là người được chúc phúc, nhưng nhấn mạnh đến lợi ích của những ai biết chú ý lắng nghe lời giảng của Ngài. Còn về Đức Ma-ri-a, thì như Thánh Augustinô đã nói, Mẹ hạnh phúc vì có Đấng Cứu Độ ngự trong tâm hồn hơn là cưu mang Ngài trong dạ.

Câu 45. Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa! – Việc được sửa dạy và phê bình luôn mang lại lợi ích cho cho những người hiền lành, nhưng trở nên không thể chịu nổi đối với những kẻ dữ. Ở đây, khi nghe Chúa Giê-su lên tiếng cảnh báo nhóm Pha-ri-sêu vì đã lạc xa chính lộ, các luật sĩ cảm thấy bị xúc phạm vì cho rằng những lời ấy cũng có thể áp dụng cho mình. Thật đáng buồn cho những lương tâm khi nghe lời Thiên Chúa lại thấy bị xúc phạm, khi nghe án phạt cho những kẻ bị ruồng bỏ lại thấy đó là những lời kết án dành cho chính mình.

Câu 52. cất giấu chìa khóa của sự hiểu biết – Theo cha Robert Witham, chìa khóa của sự hiểu biết ở đây là đức tin, vì như lời ngôn sứ I-sai-a (Is 33,6 bản Kinh Thánh Douay-Rheims), đức tin giúp chúng ta hiểu biết các chân lý.

Scroll to Top