Mục 2: Mầu nhiệm Vượt Qua trong các bí tích của Hội Thánh (1113-1134)

Số
Mục lục
Tra cứu
Câu
Mục lục
Tra cứu

Mục lục

GIÁO LÝ CÔNG GIÁO

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

TÔNG HIẾN FIDEI DEPOSITUM

LỜI MỞ ĐẦU (1-25)

PHẦN THỨ NHẤT (26-1065)

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

ĐOẠN THỨ NHẤT: “TÔI TIN” - “CHÚNG TÔI TIN” (26-184)

CHƯƠNG I: CON NGƯỜI “CÓ KHẢ NĂNG” ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA (27-49)

CHƯƠNG II: THIÊN CHÚA ĐẾN GẶP CON NGƯỜI (50-141)

Mục 1: Mặc Khải của Thiên Chúa (51-73)

Mục 2: Sự lưu truyền Mặc Khải của Thiên Chúa (74-100)

Mục 3: Thánh Kinh (101-141)

CHƯƠNG III: CON NGƯỜI ĐÁP LỜI THIÊN CHÚA (142-184)

Mục 1: Tôi tin (144-165)

Mục 2: Chúng tôi tin (166-184)

TÍN BIỂU

ĐOẠN THỨ HAI: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO (185-1065)

CHƯƠNG I: “TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA” (198-421)

Mục 1: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời, là Cha phép tắc vô cùng, dựng nên trời đất” (199-421)

Tiết 1: Tôi tin kính Đức Chúa Trời (199-231)

Tiết 2: Chúa Cha (232-267)

Tiết 3: Đấng Toàn Năng (268-278)

Tiết 4: Đấng Tạo Hóa (279-324)

Tiết 5: Trời và đất (325-354)

Tiết 6: Con người (355-384)

Tiết 7: Sự sa ngã (385-421)

CHƯƠNG II: TÔI TIN KÍNH MỘT CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ, CON MỘT THIÊN CHÚA (422-682)

Mục 2: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi” (430-455)

Mục 3: Chúa Giê-su Ki-tô “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (456-570)

Tiết 1: Con Thiên Chúa làm người (456-483)

Tiết 2: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh” (484-511)

Tiết 3: Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô (512-570)

Mục 4: Chúa Giê-su Ki-tô đã “chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác” (571-630)

Tiết 1: Chúa Giê-su và Ít-ra-en (574-594)

Tiết 2: Chúa Giê-su “chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết” (595-623)

Tiết 3: Chúa Giê-su Ki-tô được “táng xác” (624-630)

Mục 5: Chúa Giê-su Ki-tô “xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (631-658)

Tiết 1: Đức Ki-tô “xuống ngục tổ tông” (632-637)

Tiết 2: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại” (638-658)

Mục 6: Chúa Giê-su “lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng” (659-667)

Mục 7: “Ngày sau bởi trời”, Người “lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết” (668-682)

CHƯƠNG III: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN (683-1065)

Mục 8: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần” (687-747)

Mục 9: “Tôi tin Hội Thánh Công Giáo” (748-975)

Tiết 1: Hội Thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa (751-780)

Tiết 2: Hội Thánh - Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần (781-810)

Tiết 3: Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền (811-870)

Tiết 4: Các Ki-tô hữu: Phẩm trật, giáo dân, đời sống thánh hiến (871-945)

Tiết 5: “Các Thánh thông công” (946-962) [1474-1477]

Tiết 6: Đức Ma-ri-a - Mẹ Đức Ki-tô, Mẹ Hội Thánh (963-975)

Mục 10: “Tôi tin phép tha tội” (976-987)

Mục 11: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại” (988-1019)

Mục 12: “Tôi tin hằng sống vậy” (1020-1060)

“Amen” (1061-1065)

PHẦN THỨ BA (1691-2557)

ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC KI-TÔ

ĐOẠN THỨ NHẤT: ƠN GỌI CỦA CON NGƯỜI: SỐNG TRONG THẦN KHÍ (1699-2051)

CHƯƠNG I: PHẨM GIÁ CỦA NHÂN VỊ (1700-1876)

Mục 1: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa (1701-1715)

Mục 2: Ơn gọi của chúng ta là đến hưởng vinh phúc (1716-1729)

Mục 3: Sự tự do của con người (1730-1748)

Mục 4: Tính luân lý của các hành vi nhân linh (1749-1761)

Mục 5: Tính luân lý của các đam mê (1762-1775)

Mục 6: Lương tâm luân lý (1776-1802)

Mục 7: Các nhân đức (1803-1845)

Mục 8: Tội lỗi (1846-1876)

CHƯƠNG II: CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI (1877-1948)

Mục 1: Cá vị và xã hội (1878-1896)

Mục 2: Sự tham gia vào đời sống xã hội (1897-1927)

Mục 3: Công bằng xã hội (1928-1948)

CHƯƠNG III: ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA: LỀ LUẬT VÀ ÂN SỦNG (1949-2051)

Mục 1: Luật luân lý (1950-1986)

Mục 2: Ân sủng và sự công chính hóa (1987-2029)

Mục 3: Hội Thánh, Mẹ và Thầy (2030-2051)

MƯỜI ĐIỀU RĂN

ĐOẠN THỨ HAI: MƯỜI ĐIỀU RĂN (2052-2557)

CHƯƠNG I: “NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI, HẾT LÒNG, HẾT LINH HỒN VÀ HẾT TRÍ KHÔN NGƯƠI” (2083-2195)

Mục 1: Điều răn thứ nhất (2084-2141)

Mục 2: Điều răn thứ hai (2142-2167)

Mục 3: Điều răn thứ ba (2168-2195)

CHƯƠNG II: “NGƯƠI PHẢI YÊU THƯƠNG NGƯỜI LÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH” (2196-2557)

Mục 4: Điều răn thứ tư (2197-2257)

Mục 5: Điều răn thứ năm (2258-2330)

Mục 6: Điều răn thứ sáu (2331-2400)

Mục 7: Điều răn thứ bảy (2401-2463)

Mục 8: Điều răn thứ tám (2464-2513)

Mục 9: Điều răn thứ chín (2514-2533)

Mục 10: Điều răn thứ mười (2534-2557)

Tra cứu

11131210

Toàn bộ đời sống phụng vụ của Hội Thánh xoay quanh Hy tế Thánh Thể và các bí tích.24 Trong Hội Thánh có bảy bí tích: Rửa Tội, Thêm Sức hay Xức Dầu Thánh, Thánh Thể, Thống Hối, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức Thánh và Hôn Phối.25 Trong mục này, sẽ bàn đến đặc tính chung về tín lý của bảy bí tích của Hội Thánh. Những đặc tính chung về việc cử hành sẽ được trình bày ở chương II, và những điểm đặc thù của từng bí tích sẽ được trình bày ở đoạn II.

I. Các bí tích của Đức Ki-tô (1114-1116)

1114

“Dựa vào giáo lý của các Sách Thánh, vào các truyền thống Tông Đồ… và sự đồng tâm nhất trí của các Giáo phụ”,26 chúng tôi tuyên xưng rằng “tất cả các bí tích của Luật Mới… đều do Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta thiết lập.”27

1115512-560

Những lời nói và hành động của Chúa Giê-su, trong quãng đời ẩn dật cũng như trong thừa tác vụ công khai của Người, đều có tính chất cứu độ. Chúng tham dự trước vào quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Chúng loan báo và chuẩn bị những gì Người sẽ ban cho Hội Thánh khi mọi sự được hoàn tất. Các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Ki-tô là nền tảng cho những gì Người ban phát trong các bí tích nhờ các thừa tác viên của Hội Thánh Người, bởi vì “điều hữu hình nơi Đấng cứu độ chúng ta được chuyển vào trong các bí tích.”28

11161504, 774

Là “những năng lực phát ra” từ thân thể Đức Ki-tô,29 Đấng hằng sống và ban sự sống, là những hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong thân thể Đức Ki-tô là Hội Thánh, các bí tích là “những kỳ công của Thiên Chúa” trong Giao Ước mới và vĩnh cửu.

II. Các bí tích của Hội Thánh (1117-1121)

1117120

Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn đưa Hội Thánh vào “sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13), Hội Thánh dần dần nhận ra kho tàng này mà mình đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô và xác định việc “ban phát” kho tàng ấy, cũng như Hội Thánh đã làm với Thư Quy các Sách Thánh và giáo lý đức tin, với tư cách là người quản lý trung tín các mầu nhiệm của Thiên Chúa.30 Vì vậy, theo dòng thời gian, Hội Thánh xác định trong số các cử hành phụng vụ của mình, có bảy cử hành là những bí tích, theo nghĩa hẹp của từ này, do Chúa thiết lập.

11181396

Các bí tích là “của Hội Thánh” theo hai nghĩa: chúng là “do Hội Thánh” và “cho Hội Thánh.” Các bí tích là “do Hội Thánh” bởi vì Hội Thánh là bí tích của hành động của Đức Ki-tô Đấng đang hoạt động trong Hội Thánh nhờ sứ vụ của Chúa Thánh Thần. Và các bí tích là “cho Hội Thánh”, “nhờ chúng mà Hội Thánh được xây dựng”31 bởi vì chúng biểu lộ và truyền thông cho con người, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của sự hiệp thông của Thiên Chúa-Tình Yêu, Đấng là Một Chúa Ba Ngôi.

1119792

Hội Thánh, cùng với Đức Ki-tô là Đầu làm nên như “một con người mầu nhiệm”,32 hành động trong các bí tích với tư cách là “cộng đoàn tư tế” “có tổ chức.”33 Nhờ bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, dân tư tế có khả năng cử hành phụng vụ; ngoài ra, có một số Ki-tô hữu, được lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh, “được thiết đặt nhân danh Đức Ki-tô để chăn dắt Hội Thánh bằng lời và ân sủng của Thiên Chúa.”34

11201547

Thừa tác vụ có chức thánh hay “chức tư tế thừa tác35 là để phục vụ chức tư tế do bí tích Rửa Tội. Chức tư tế thừa tác bảo đảm rằng trong các bí tích, chính Đức Ki-tô hành động nhờ Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh. Sứ vụ cứu độ mà Chúa Cha ủy thác cho Chúa Con khi xuống thế làm người, được trao cho các Tông Đồ và qua các ngài cho những người kế nhiệm các ngài: những vị này lãnh nhận Thánh Thần của Chúa Giê-su để hành động nhân danh Người và trong cương vị của Người.36 Như vậy, thừa tác vụ có chức thánh là sợi dây mang tính bí tích nối kết hành động phụng vụ với những gì các Tông Đồ đã nói và đã làm, và qua các Tông Đồ, với những gì Đức Ki-tô, Đấng là nguồn mạch và nền tảng của các bí tích, đã nói và đã làm.

11211272, 1304, 1582

Ba bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh, ngoài việc trao ban ân sủng, còn ban một dấu ấn bí tích hoặc “ấn tín”, nhờ đó, Ki-tô hữu được tham dự vào chức tư tế của Đức Ki-tô và là thành phần trong Hội Thánh theo những bậc sống và những phận vụ khác nhau. Việc đồng hình đồng dạng như vậy với Đức Ki-tô và với Hội Thánh, do Chúa Thánh Thần thực hiện, là không thể bị tẩy xóa,37 nhưng tồn tại mãi mãi trong Ki-tô hữu, với tính cách một sự chuẩn bị tích cực để đón nhận ân sủng, với tính cách một lời hứa và bảo chứng được Thiên Chúa che chở, và với tính cách một ơn gọi để phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Vì vậy, các bí tích này không bao giờ có thể được tái ban.

III. Các bí tích của đức tin (1122-1126)

1122849, 1236

Đức Ki-tô đã sai các Tông Đồ của Người đi để “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47). “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28,19). Sứ vụ làm Phép Rửa, tức là sứ vụ bí tích, được bao hàm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, bởi vì bí tích được chuẩn bị bằng Lời Chúa và bằng đức tin, là sự ưng thuận vâng theo Lời đó:

“Dân Thiên Chúa được quy tụ trước tiên bằng Lời của Thiên Chúa hằng sống… Chính thừa tác vụ bí tích đòi phải có việc rao giảng Lời Chúa, bởi vì các bí tích là bí tích của đức tin, một đức tin được sinh ra và được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa.”38

11231154

“Các bí tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Đức Ki-tô và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa; là những dấu chỉ, chúng còn có mục đích giáo huấn nữa. Các bí tích không những giả thiết phải có đức tin trước, mà chúng còn nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin bằng các lời đọc và các nghi thức; bởi vậy, chúng được gọi là các bí tích của đức tin”39 .

1124166, 1327, 78

Đức tin của Hội Thánh có trước đức tin của tín hữu, là người được mời gọi gắn bó với đức tin của Hội Thánh. Khi cử hành các bí tích, Hội Thánh tuyên xưng đức tin đã lãnh nhận từ các Tông Đồ. Từ đó có câu thành ngữ cổ: “Lex orandi, lex credendi”, nghĩa là “Luật cầu nguyện, luật đức tin” (hay như lời Ông Prospêrô Aquitanô, vào thế kỷ thứ 5: “Legem credendi lex statuat supplicandi”, nghĩa là “Luật của việc khẩn cầu ấn định luật của đức tin”).40 Luật của việc cầu nguyện là luật của đức tin. Hội Thánh tin như Hội Thánh cầu nguyện. Phụng vụ là yếu tố cấu thành của Truyền Thống thánh thiện và sống động.41

11251205

Vì vậy, không một nghi thức bí tích nào có thể được sửa đổi hay tùy tiện thêm bớt theo sở thích của thừa tác viên hay cộng đoàn. Chính thẩm quyền tối cao của Hội Thánh cũng không thể thay đổi phụng vụ theo sở thích của mình, nhưng chỉ được làm vậy trong sự vâng phục đức tin và tôn kính cách đạo hạnh mầu nhiệm của phụng vụ.

1126815

Ngoài ra, bởi vì các bí tích diễn tả và phát huy sự hiệp thông đức tin trong Hội Thánh, nên luật cầu nguyện (lex orandi) là một trong những tiêu chuẩn cốt yếu của việc đối thoại nhằm tái lập sự hợp nhất các Ki-tô hữu.42

IV. Các bí tích của ơn cứu độ (1127-1129)

11271084, 1105, 696

Khi được cử hành cách xứng đáng trong đức tin, các bí tích ban ân sủng mà chúng biểu lộ.43 Các bí tích đều hữu hiệu, bởi vì chính Đức Ki-tô hành động trong chúng: chính Người là Đấng rửa tội, chính Người là Đấng hành động trong các bí tích của Người để truyền thông ân sủng mà bí tích biểu lộ. Chúa Cha luôn nhận lời cầu nguyện của Hội Thánh của Con Ngài, vì trong kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) của mỗi bí tích, Hội Thánh biểu lộ đức tin của mình vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Cũng như lửa biến đổi mọi thứ nó chạm tới thành lửa, Chúa Thánh Thần cũng biến đổi những gì được trao phó cho quyền năng của Ngài thành sự sống thần linh.

11281584

Đây là ý nghĩa của điều Hội Thánh khẳng định:44 các bí tích hữu hiệu “do sự” – ex opere operato – (do chính hành động bí tích được thực hiện) nghĩa là chúng hữu hiệu nhờ công trình cứu độ của Đức Ki-tô đã được hoàn thành một lần cho mãi mãi. Từ đó, có hệ luận này là: “Bí tích không mang lại hiệu quả nhờ sự công chính của người trao ban hay người lãnh nhận, nhưng nhờ quyền năng của Thiên Chúa.”45 Khi một bí tích được cử hành theo đúng ý hướng của Hội Thánh, thì quyền năng của Đức Ki-tô và của Thần Khí Người hành động trong và qua bí tích ấy, chứ không lệ thuộc vào sự thánh thiện bản thân của thừa tác viên. Tuy nhiên, các hoa trái của các bí tích cũng tùy thuộc vào sự chuẩn bị nội tâm của người lãnh nhận.

11291257, 2003, 460

Hội Thánh khẳng định rằng, đối với các tín hữu, các bí tích của Giao Ước Mới là cần thiết cho ơn cứu độ.46 “Ân sủng bí tích” là ân sủng của Chúa Thánh Thần được Đức Ki-tô ban cho riêng từng bí tích. Chúa Thánh Thần chữa lành và biến đổi những ai đón nhận Ngài bằng cách làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa. Hoa trái của đời sống bí tích là, Thần Khí của ơn làm nghĩa tử làm cho các tín hữu được tham dự bản tính Thiên Chúa bằng cách kết hợp họ một cách sống động với Người Con duy nhất, là Đấng Cứu Độ.47

V. Các bí tích của đời sống vĩnh cửu (1130)

11302817, 950

Hội Thánh cử hành mầu nhiệm của Chúa mình “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), lúc “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Ngay từ thời các Tông Đồ, phụng vụ đã được hướng đến cùng đích của mình qua lời rên xiết của Thần Khí trong Hội Thánh: “Marana tha! – Lạy Chúa, xin ngự đến!” (1 Cr 16,22). Như thế, Phụng vụ chia sẻ nỗi khát khao của Chúa Giê-su: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em… cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22,15.16). Trong các bí tích của Đức Ki-tô, Hội Thánh đã nhận được bảo chứng gia tài của mình, đã được dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi “trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2,13). “Thần Khí và Tân Nương nói: Xin Ngài ngự đến… Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,17.20).

Thánh Tô-ma tóm lược các chiều kích khác nhau của dấu chỉ bí tích như sau: “Bí tích là dấu chỉ nhắc nhớ điều đã xẩy ra trước nó, tức là cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô; là dấu chỉ cho thấy điều được thực hiện nơi chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô, tức là ân sủng; là dấu chỉ tiên báo, tức là báo trước vinh quang tương lai.”48

Tóm lược (1131-1134)

1131

Các bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng, do Đức Ki-tô thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh; qua các bí tích, sự sống thần linh được trao ban cho chúng ta. Các nghi thức khả giác được dùng để cử hành bí tích, biểu thị và thực hiện ân sủng riêng của từng bí tích. Các bí tích mang lại hoa trái nơi những người lãnh nhận có sự chuẩn bị nội tâm cần thiết.

1132

Hội Thánh cử hành các bí tích với tư cách là một cộng đoàn tư tế có tổ chức, gồm chức tư tế do bí tích Rửa Tội, và chức tư tế của các thừa tác viên có chức thánh.

1133

Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho các bí tích bằng Lời Chúa và bằng đức tin đón nhận Lời Chúa nơi những tâm hồn đã chuẩn bị tốt. Lúc đó các bí tích củng cố và diễn tả đức tin.

1134

Đời sống bí tích đem lại hoa trái vừa cho cá nhân vừa cho Hội Thánh. Một đàng, đối với mọi tín hữu, hoa trái này là đời sống cho Thiên Chúa trong Chúa Giê-su Ki-tô; đàng khác, đối với Hội Thánh, hoa trái này là sự tăng trưởng trong đức mến và trong sứ vụ làm chứng của Hội Thánh.


Chú thích

24 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 6: AAS 56 (1964) 100.

25 X. CĐ Lyon II, Professio fidei Michaelis Palaeologi imperatoris : DS 860; CĐ Florentinô, Decretum pro Armenis : DS 1310; CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 1: DS 1601.

26 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Decretum de sacramentis, Prooemium: DS 1600.

27 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 1: DS 1601.

28 Thánh Lê-ô Cả, Sermo 74, 2: CCL 138A, 457 (PL 54,398).

29 X. Lc 5,17; 6,19; 8,46.

30 X. Mt 13,52; 1 Cr 4,1.

31 Thánh Augustinô, De civitate Dei, 22, 17: CSEL 40/2, 625 (PL 41,779); x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 64, a. 2, ad 3: Ed. Leon. 12, 43.

32 ĐGH Pi-ô XII, Thông điệp Mystici corporis: AAS 35 (1943) 226.

33 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.

34 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 11: AAS 57 (1965) 15.

35 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 10: AAS 57 (1965) 14.

36 X. Ga 20,21-23; Lc 24,47;Mt 28,18-20.

37 CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 9: DS 1609.

38 CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 4: AAS 58 (1966) 995-996.

39 CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Sacrosanctum concilium, 59: AAS 56 (1964) 116.

40 Indiculus, c. 8 : DS 246 (PL 51,209).

41 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821.

42 X. CĐ Va-ti-ca-nô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 2: AAS 57 (1965) 91-92 ; Ibid., 15: AAS 57 (1965) 101-102.

43 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 5: DS 1605; Ibid., canon 6: DS 1606.

44 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 7a, Canones de sacramentis in genere, canon 8: DS 1608.

45 X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 68, a. 8, c.: Ed. Leon. 12, 100.

46 X. CĐ Tri-đen-ti-nô, Sess. 4a, Canones de sacramentis in genere, canon 8: DS 1604.

47 X. 2 Pr 1,4.

48 Thánh Tô-ma A-qui-nô, Summa theologiae, III, q. 60, a. 3, c.: Ed. Leon. 12,6.

Scroll to Top